BÁ KIẾN TRONG ĐỜI THỰC QUA LỜI KỂ
CỦA DÂN LÀNG ‘VŨ ĐẠI’
Làng Vũ Đại - cái tên nổi tiếng trong các truyện
ngắn của nhà văn Nam Cao - nay là xóm 11, thôn 4, xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân,
tỉnh Hà Nam, nằm cách thành phố Phủ Lý hơn 30km. Thời mà các nhân vật kinh điển
như Chí Phèo, Bá Kiến, lão Hạc… đi ra từ trang sách, làng này có tên là Đại
Hoàng, thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, Hà Nam.
82 năm sau
khi tác phẩm Chí Phèo ra đời, nơi đây san sát nhà cao tầng và biệt thự. Từ
đường lớn đến ngõ xóm đều được trải nhựa, trải bê tông phẳng lì, cứ cách vài ba
nhà lại thấy đỗ một chiếc xe hơi đời mới. Khung cảnh hiếm hoi có thể giúp người
ta lùi về quá khứ để mường tượng về cuộc sống các nhân vật trong truyện Nam Cao
là ngôi nhà cổ từng thuộc về nguyên mẫu của nhân vật Bá Kiến - ông Trần Duy
Bính. Ông này giành được ghế nghị viên nên dân làng thường gọi là Nghị Bính.
Theo ông Trần Hữu Vịnh, một người làng đang trông
coi khu tưởng niệm Nam Cao, nguyên mẫu của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở,
Bá Kiến, lão Hạc, Lý Cường đều từng sống trong làng Đại Hoàng xưa. Có khi, nhà
văn “ghép chất liệu” từ vài ba người để xây dựng một nhân vật.
Ông Trần Văn
Đô, 70 tuổi, giáo viên nghỉ hưu, được dân làng cho là người nắm rõ nhất “lý
lịch” các nhân vật của Nam Cao, cũng khẳng định điều này.
Nói về vùng
đất quê hương Chí Phèo, Bá Kiến, ông giáo Đô cho biết: “Dân làng Đại
Hoàng xưa 100% là người họ Trần với nhiều chi khác nhau, được phân biệt bởi 36
tên đệm như Trần Văn, Trần Duy, Trần Đức, Trần Bá, Trần Khắc… Do đó về
miền Nhân Hoà (xã Hoà Hậu được sáp nhập từ 2 xã Nhân Hậu, Nhân Hoà và cũng được
chia thành 2 miền đạo Nhân Hoà - Nhân Hậu), nếu thấy bất cứ ai mang họ khác thì
đều có thể khẳng định họ từ nơi khác đến đây sinh cơ lập nghiệp”.
Nguyên mẫu
nhân vật Bá Kiến thuộc chi họ Trần Duy. Ông Trần Duy Bính sinh khoảng năm 1863,
mất ngày 8/11/1948, thọ tới 85 tuổi chứ không phải bị gã lưu manh chuyên rạch
mặt ăn vạ đâm chết như Bá Kiến trong truyện Chí Phèo.
“Hiện ngôi mộ ông Trần Duy Bính được an táng tại
nghĩa trang Đồng Chùa của địa phương. Ông Bính là con trai của cụ Trần Duy
Thực. Người làng Đại Hoàng vẫn gọi ông là Nghị Bính. Vì ông thuộc hàng chức sắc
nên không chỉ làng Đại Hoàng mà cả tổng Nam Sang đều biết tiếng”, ông Trần Văn Đô nói.
Gia tộc ông
Trần Duy Bính có 6 đời làm lý trưởng. Bản thân ông ban đầu phải mua chức phó lý
rồi sau đó mới lên lý trưởng. Lý Bính rất được lòng quan trên, nhờ thế mà leo
lên được tới chức chánh tổng Cao Đà, giành ghế nghị viên Bắc Kỳ, trở thành Nghị
Bính.
Theo lời các
cụ trong làng kể lại thì ông từng được vào kinh đô Huế dự lễ tế đàn Nam Giao;
thường cưỡi con ngựa màu nâu thẫm mỗi lần có việc đi khỏi làng, phía sau có một
người hầu cắp tráp chạy theo.
Theo bà Trần
Thị Viễn, 73 tuổi, người thường xuyên trông coi ngôi nhà của ông Trần Duy Bính
(nay được Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Nam mua lại để bảo tồn), trên thực
tế, Nghị Bính không đến nỗi độc ác như nhân vật Bá Kiến:"Cuộc sống của
người làng thời bấy giờ rất khó khăn. Ông Bính nhận vài chục người vào làm để
họ có thể nuôi thân và gia đình. Anh trai chồng tôi cũng là người làm thuê cho
ông Bính”.
Người trong làng cho biết, ông Nghị Bính có 5 vợ,
12 con, gồm 3 trai, 9 gái.
Không ai còn
nhớ tên bà cả, nhưng bà được cho là người phụ nữ tính tình chân thật, hiền hòa,
nên được ông Nghị giao quản lý tiền nong. Bà chỉ có một con trai tên là Trần
Duy Tảo.
Bà hai tên là
Trần Thị Khuyến, được ông Nghị cưới về trong thời gian bà cả ốm nặng đến mức
tưởng không qua khỏi. Bà sinh được 4 con, trong đó người con trai - Trần Duy
Hòe - chính là nguyên mẫu của nhân vật Lý Cường (con trai Bá Kiến) trong truyện
ngắn Chí Phèo. Các con gái là Trần Thị Quế, Trần Thị Trinh, Trần Thị Nhài.
Bà tư (cũng
không rõ tên) sinh cho Nghị Bính 3 con gái là Trần Thị Sen, Trần Thị Cúc, Trần
Thị Hồng.
Bà năm là
người vợ duy nhất của Nghị Bính không phải người làng. Bà tên Trạch, quê Thái
Bình, vốn làm nghề buôn bán. Ông Bính quen bà trong một chuyến đi làm việc ở
xa, sau đó cưới làm vợ nhưng không đưa về làng. Bà Trạch sống với thân phận
người vợ bị giấu kín rất nhiều năm. Cho đến khi con trai của bà lấy vợ,
sinh con, ông Nghị mới đưa họ về quê ra mắt gia đình, họ tộc.
Người vợ có số phận đặc biệt nhất của Nghị Bính
là bà ba Trần Thị Yêm, vốn là vợ của một sỹ quan Pháp. Sau khi ông chồng Tây
chết bệnh, bà được hưởng toàn bộ gia sản. Vừa xinh đẹp vừa giàu có, lại chưa
sinh con, bà được Nghị Bính săn đón rồi cưới về làm vợ.
Theo ông Trần
Văn Đô, bà ba là người phụ nữ đem lại nhiều tài lộc cho Nghị Bính. Khi lấy ông,
bà Yêm mang về số tài sản khá lớn. Bà lại biết chiều chồng nên rất được ông
Nghị yêu chiều dù không sinh được con trai. Ba người con gái của bà tên là Trần
Thị Dung, Trần Thị Yến, Trần Thị Xuyến.
Năm 1953,
trong cải cách ruộng đất, vì là địa chủ, cường hào, gia đình Nghị Bính bị
đấu tố. Sợ bị đem ra xử bắn, bà Yêm tự treo cổ lên cây nhãn trong vườn nhà, gia
đình phải bó chiếu đem chôn.
Về cuộc sống
của nguyên mẫu Bá Kiến với các bà vợ, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Vinh,
nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Sông Châu (Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam), ông
Bính cấp cho mỗi bà vợ một dinh cơ riêng.
Bản thân ông
ở với bà ba, nhưng cũng không để các bà kia chăn đơn gối chiếc mà “lên lịch” rõ
ràng. Các bà vợ cũng tỏ ra "biết điều", hôm nào đến phiên mình tiếp
chồng đều tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị mấy quả trứng gà để ông tẩm bổ.
Cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Vinh, tuy
không bỏ rơi bà vợ nào nhưng vì sức lực có hạn, ông không thể làm vừa lòng cùng
lúc 5 bà. Người vợ thứ ba vì cảm thấy thiếu thốn nên đã “tòm tem” với một anh
canh điền. Chuyện này được nhà văn Nam Cao đưa vào truyện ngắn Chí Phèo với chi
tiết Chí bóp đùi cho bà ba Bá Kiến.
“Phần lớn
chuyện dan díu của các bà đều kín như bưng, nhưng cũng có lúc bại lộ. Chẳng hạn
vụ bà ba Yêm với canh điền đã bị một người hầu để ý. Bà đã ‘bịt miệng’ anh ta
một cách khôn khéo nhưng sau này chuyện vẫn lộ ra và dân làng xì xào. Vì vậy mà
bà ba phải hối lộ thêm cho người hầu kia một bộ trường kỷ. Bộ ghế này vẫn tồn
tại ở làng Đại Hoàng cho đến khoảng năm 2005, sau đó không biết bị mang đi đâu
mất”, ông Nguyễn Thế Vinh nói.
Theo thông tin mà ông giáo Trần Văn Đô nắm được, bộ trường kỷ này được bán cho chủ một xưởng gỗ ở Nam Định.
0 comments:
Đăng nhận xét