VỀ
BỒ ĐỀ TÂM
*
(Tác giả Nguyễn Toàn Thắng) |
Theo Tỳ Kheo Thích Chúc Xuân thì Bồ-đề tâm phát xuất từ
chữ ‘bodhicitta’, là một thuật ngữ của Phật giáo Bắc truyền. ‘Bồ-đề’ là phiên
âm của chữ ‘bodhi’ (tiếng Pali/Sanskrit), nghĩa là ‘giác’, ‘giác ngộ’, ‘tuệ giác’,
tức là hiểu biết các pháp một cách rốt ráo, không có chấp
thủ. Bodhi là quả vị giác ngộ tối thượng mà đức Phật đã chứng đắc
dưới gốc cây Assattha mà sau đó cây này được gọi là cây Bodhi (Bồ-đề). Tâm Bồ
Đề là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân
quả và Phật tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị
Phật. Bồ-đề tâm (bodhicitta) do đó có thể được hiểu là tâm giác ngộ.
Tâm cầu Vô thượng Bồ đề gọi là Bồ đề tâm, tâm ấy là thệ
nguyện, tức dục tâm sở trong 5 tâm sở biệt cảnh. Dục tâm sở không cầu Bồ đề của
Thanh văn, Độc giác và Bồ tát, mà chỉ cầu Vô thượng Bồ đề, nên gọi là Bồ đề
tâm. Và như vậy, chữ ‘Phát’ trong từ ngữ phát Bồ đề tâm có nghĩa là lập: lập
cái chí nguyện mong cầu Vô thượng Bồ đề, gọi là phát Bồ đề tâm. Đó là cái nghĩa
đầu tiên và quan trọng nhất về sự phát Bồ đề tâm của người học Phật.
Đối với chư Phật, nó là thực tại; còn đối với chúng sanh,
nó cần phải được phát huy, cho nên được gọi là ‘phát tâm bồ-đề’. Người phát tâm
bồ-đề cần hiểu rõ rằng bồ-đề sẵn có trong mỗi chúng sanh và sẽ hiện rõ khi màn
vô minh được vén lên. Điều này muốn nói đến tánh giác trong mỗi chúng sanh.
Theo Phật giáo Nguyên thủy (Pali), từ tương đương của bồ-đề tâm có lẽ là
‘pabhassara citta’, nghĩa là ‘tâm sáng chói’. Kinh Tăng Chi chép: “Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói,
nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào” (A.i, 9). Như vậy, phát tâm
bồ-đề có thể được hiểu là hướng tâm đến sự thanh tịnh sáng chói vốn có (của
tâm), và cũng tức là hướng tâm đến sự giác ngộ bồ-đề (bodhi).
Theo Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật đã dạy: “Nầy thiện nam tử! Bậc Bồ Tát phát lòng Vô
Thượng Bồ Đề là ‘khởi lòng đại bi cứu độ tất cả chúng sanh. Khởi lòng cúng
dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng khắp cầu chánh pháp, tất cả không
sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng lớn, cầu nhứt thiết trí. Khởi lòng đại bi vô
lượng, khắp nhiếp tất cả chúng sanh. Khởi lòng không bỏ rơi các loài hữu tình,
mặc áo giáp kiên thệ để cầu Bát Nhã Ba La Mật. Khởi lòng không siểm dối, vì cầu
được trí như thật. Khởi lòng thực hành y như lời nói, để tu đạo Bồ Tát. Khởi
lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ thệ nguyện lớn của tất cả Như Lai. Khởi
lòng nguyện cầu nhứt thiết trí, cùng tận kiếp vị lai giáo hóa chúng sanh không
dừng nghỉ. Bồ Tát dùng những công đức Bồ Đề Tâm nhiều như số bụi nhỏ của cõi
Phật như thế, nên được sanh vào nhà Như Lai. Nầy thiện nam tử! Như người học
bắn, trước phải tập thế đứng, sau mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ Tát muốn
học đạo nhứt thiết trí của Như Lai, trước phải an trụ nơi Bồ Đề Tâm, rồi sau
mới tu hành tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu,
song tất cả đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế, Bồ Tát tuy mới phát Bồ Đề tâm
tu Bồ Tát hạnh, song tất cả bậc kỳ cựu hàng nhị thừa đều phải kính trọng nể vì.
Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần chưa được tự tại, song đã đủ
tướng trạng của vua, các bầy tôi không thể sánh bằng, bởi nhờ chỗ xuất sanh tôn
quý”.
Phát bồ-đề tâm như thế nào? Trước hết chúng ta cần xác
định rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến con người và tâm người, mà không có một sự
phân biệt nào liên quan đến giai cấp, sắc tộc, tôn giáo, v.v. Và hành
động hay nghiệp (karma) được xem là chủ trương của Phật giáo với
mục đích là làm thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý (việc làm, lời nói, ý nghĩ).
Đây là con đường đưa đến sự đoạn tận tham, sân, si, thành tựu quả vị bồ-đề. Nói
cách khác, quả vị bồ-đề có thể chứng đắc nếu hành trì đúng pháp (tức là làm
thanh tịnh ba nghiệp, đoạn tận tham, sân, si), mà không tùy thuộc vào một quan
điểm hay danh xưng nào. Trung Bộ Kinh, số 126, nói rằng “dù có nguyện vọng hay không, việc hành trì
Phạm hạnh một cách chánh đáng thời đạt được quả vị.”
Chướng ngại của bồ-đề chính là vô minh và các cấu uế từ
bên ngoài vào, được hiển thị qua thân, khẩu, ý. Càng ít vô minh (tức trí tuệ
càng nhiều) chừng nào thì người ta càng dễ dàng buông bỏ những cấu uế ngoại lai
chừng ấy, và ngược lại.
Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu,
không phải chỉ nói suông “Tôi phát Bồ Đề
Tâm” là đã phát tâm, hay mỗi ngày tuyên đọc Tứ Hoằng Thệ Nguyện, gọi là đã phát
Bồ Đề Tâm. Muốn phát Bồ Đề Tâm hành giả cần phải quán sát để phát tâm một cách
thiết thật, và hành động đúng theo tâm nguyện ấy trong đời tu của mình. Có
những người xuất gia, tại gia mỗi ngày sau khi tụng kinh niệm Phật đều quỳ đọc
bài hồi hướng: “Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não…” Nhưng rồi trong hành
động thì trái lại, nay tham lam, mai hờn giận, mốt si mê biếng trễ, bữa kia nói
xấu hay chê bai chỉ trích người, đến bữa khác lại có chuyện tranh cãi gây gổ
buồn ghét nhau. Như thế tam chướng làm sao tiêu trừ được? Chúng ta phần nhiều
chỉ tu theo hình thức, chứ ít chú trọng đến chỗ khai tâm, thành thử lửa tam độc
vẫn cháy hừng hực, không hưởng được hương vị thanh lương giải thoát của Đức
Phật đã chỉ dạy.
Phát Bồ Đề Tâm là để chỉ một một tâm
nguyện vô cùng thiêng liêng cao quý, là niệm khởi đầu tiên trên con đường tu
hành của người Phật tử để chuyển hóa tâm thức từ trạng thái mê vọng trôi lăn
trong vòng sinh diệt triền miên trở thành giác ngộ Trí Tuệ Bát Nhã.
Tâm Bồ Đề là Tâm Giác Ngộ, là Phật
Tánh. Phát Bồ Đề Tâm là “Khởi lên tâm nguyện tu hành thành Phật để cứu độ chúng
sinh”. Nếu chúng ta tưởng rằng Phát Bồ Đề Tâm là làm những việc thiện tạo phước
trong vòng tương đối như “lấy giúp con dao”, “khiêng hộ cái bàn”, là vô tình
chúng ta đã làm mất đi ý nghĩa của một tâm nguyện cao thượng về công đức tu
hành, mục tiêu cốt tủy của đạo Phật.
Phát Bồ Đề Tâm là công đức do tu
hành, có công năng giải thoát kiếp người ra khỏi dòng nghiệp lực triền miên
sinh tử luân hồi.
Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã dạy:
“Nầy thiện nam tử! Bậc Bồ Tát phát Bồ Đề Tâm là khởi Tâm Đại Bi cứu độ tất cả
chúng sanh”.
Phát Bồ Đề Tâm như trên đã nói, có
thể tóm tắt trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện:
“Chúng sanh vô biên, thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng, thệ nguyện thành”.
Đại sư Thật Hiền, một vị cao tăng đã thiết tha kêu gọi
mọi người Phát Bồ Đề Tâm như sau:
- …Tôi từng nghe, cửa chính yếu để nhập đạo thì sự phát
Tâm đứng đầu, việc khẩn cấp để tu hành thì sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập
thì chúng sanh độ nổi, Tâm phát thì Phật đạo thành được. Cái tâm quảng đại
không phát, cái nguyện kiên cố chẳng lập, thì dẫu trải qua đời kiếp nhiều như
cát bụi, cũng y nhiên vẫn ở trong phạm vi luân hồi. Tu hành dẫu có, cũng toàn
là lao nhọc, khổ sở một cách vô ích. Do đó mà kinh Hoa Nghiêm đã nói, quên mất
Tâm Bồ Đề mà tu hành các thiện pháp thì gọi là hành động theo ma vương. Quên
mất còn thế, huống chi chưa phát. Nên muốn học Như Lai thừa thì trước phải phát
Bồ Đề nguyện, không thể chậm trễ”.
Đạo Phật có rất nhiều kinh điển, cùng sách vở giới thiệu
tất cả các pháp môn tu tập tự cổ chí kim, trình bày các kinh nghiệm tu hành,
thích ứng cho đủ mọi căn cơ, trình độ. Với mục đích duy nhất là khai mở và chỉ
bày cho tất cả nhân sinh thấy rõ cái "bản tâm thanh tịnh" của chính
mình. Phần còn lại của chúng ta là tự mình ngộ và nhập được bản tâm thanh tịnh
đó. Nếu không ngộ được điều này, tức là không sống được với bản tâm thanh tịnh,
dù có tu tập nhiều công phu cũng khó thu lượm kết quả khả quan. Người giữ được
tâm bình thường, ngộ và nhập được bản tâm thanh tịnh, là người thấy đạo, vào
được đạo. Thiền sư Phổ Nguyện, Nam Tuyền, có dạy, "Bình thường tâm thị
đạo." Cầu nguyện với tâm hồn bồn chồn, lo lắng, lăng xăn lộn xộn, khổ đau
tuyệt vọng chỉ đem lại sự bình an tâm trí tạm thời. Bình an thực sự chỉ có cho
người thiện tâm. Thiên đàng, địa ngục hay đau khổ, hạnh phúc tuy là hai tâm
trạng khác nhau, nhưng thực sự, tất cả chỉ là các trạng thái ở trong tâm của
chúng ta mà thôi.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm và Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức
Phật có dạy, "Sanh diệt ký diệt,
tịch diệt hiện tiền. Sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc." Nghĩa là
khi nào các tâm sanh diệt, tức là tâm tham sân si, nổi lên rồi lắng xuống, sanh
khởi rồi diệt đi, không còn nữa, gọi là sanh diệt, thì tâm trí bình yên lặng
lẽ, không xáo trộn, gọi là tịch diệt hiện tiền, hay tịch diệt vi lạc, tức là
cảnh giới an lạc, niết bàn tự tại, hiện ngay trước mặt. Tâm trạng bất an vì
những niệm sanh diệt, gọi là tâm chúng sanh. Tâm sanh diệt diệt rồi, không còn
lăng xăng lộn xộn nữa, trở nên tâm trống không và tịch tịnh, hoàn toàn thanh
tịnh, gọi là bản tâm thanh tịnh, hay tâm bình thường, đó chính là Phật tâm.
Vậy làm sao để phát Bồ đề tâm? Có hai phương pháp chính:
Thứ nhất là quán sáu nhân và một quả. Tu quán sáu nhân:
nhận biết tất cả chúng sanh đều đã có lần làm mẹ chúng ta - tình thương của
người mẹ - tư tưởng báo hiếu - khởi tâm thương yêu - từ bi và nguyện gánh trách
nhiệm cho thế gian; đưa đến một quả là Bồ đề tâm.
Phương pháp thứ hai là quán chiếu trao đổi trực tiếp,
thay vì ái luyến bản thân thì quan tâm đến tha nhân.
Muốn tu tập một trong hai pháp Phát Tâm Bồ đề này, đầu
tiên phải phát khởi thấy tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Quán từ từ, mới đầu
xem một số chúng sanh nào đó, quán họ như người thân, rồi sau quán đến những
người ghét, những kẻ thù, sau nữa đến hết những người lạ đều như thế. Cho đến
lúc đạt đến sự bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh. Bằng không dù có muốn
thiền quán để phát tâm Bồ đề cũng chẳng ảnh hưởng chi! Cũng tương tự như thế,
không thể đạt tâm Bồ đề viên mãn khi tâm thức còn phân biệt người này bạn, kẻ
kia thù hay người nọ xa lạ.
Vì thế chúng ta nên phát tâm sâu rộng làm lợi ích chúng
sanh, mở rộng lòng thương đến hết thảy muôn loài. Đừng để tâm mình dần trở nên
chai sạn, hãy để tâm ấy thăng hoa thành đại từ bi, mong mỏi chúng sanh thoát
vòng đau khổ. Mỗi khi đối diện với người đang khổ, trong tâm cần có tình thương
như tâm người mẹ nhìn đứa con thơ duy nhất, đang trong lửa dữ hay đang bị cuốn xuống
sông sâu, lúc đó người mẹ chỉ có một niệm duy nhất là làm sao cứu đứa con yêu
ra khỏi nguy hiểm mà thôi; và hãy để tâm mình trào dâng lòng bi cảm với người
như thế. Gặp ai đang khổ, nên nguyện: “nguyện cho con giúp người hết khổ”. Với
ai đang vui, phát nguyện: “nguyện cho con
giúp người mãi được vui”.
Tâm nguyện đó phải bình đẳng đối với hết thảy mọi
loài chúng sanh, đừng như một số người chỉ biết thương bạn bè hay người thân
thuộc, và dửng dưng với người lạ hoặc kẻ thù của mình. Đó không phải từ bi mà
chính là sự ràng buộc. Lòng từ bi chân thật phải hoàn toàn không phân biệt, xem
tất cả đều bình đẳng như nhau.
Bồ Đề Tâm là nền tảng của tất cả mọi công việc chúng ta
làm, giống như rễ một cây thuốc có cành, lá và hoa, tất cả đều tạo ra những
chất dinh dưỡng. Phẩm chất và sự thanh tịnh trong hành trì của chúng ta tùy
thuộc vào Bồ Đề Tâm Nguyện thẩm thấu trong mỗi phương pháp tu tập. Phát Bồ đề
tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng
Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy, cuối cùng, phát hiện bản thể của tuệ giác
ấy là chân như. Có Tâm Bồ Đề thì mọi việc đều hoàn tất mỹ mãn. Đó là cách xác
lập chí hướng tâm nguyện thù thắng. Không có tâm nguyện này thì mọi sự đều
không đi tới đâu. “Tâm Bồ đề kiên cố, chí tu học vững bền” an trú trong trái
tim Bồ đề và đến với thế gian cũng bằng trái tim Bồ đề. Xin chắp tay cầu nguyện
cho tâm Bồ đề của quí vị luôn kiên cố.
*.
NGUYỄN TOÀN THẮNG giới thiệu
Địa chỉ: thôn Tống Vũ, xã Vũ Chính,
thành phố Thái Bình
Email: nguyentoanthang77@gmail.com
.
..............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 28.06.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét