TRẢ LỜI BÀI
VIẾT CHO
ĐÚNG SỰ THẬT
*
Trong bài tựa đề “Viết
cho đúng sự thật” ngày 23-11-2009, ông Lữ Giang đã đề cập đến bài “Lý
do cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963” của tôi. Tôi cảm ơn ông Lữ
Giang đã viết bài phê bình bài viết của tôi, nhưng tôi thành thật thưa với ông,
lối viết tự cao và khiêu khích cố hữu của ông chỉ gây thêm mâu thuẫn, chứ chẳng
có ích lợi gì trong việc trao đổi, học hỏi với nhau.
Sở dĩ tôi nói chuyện học
hỏi, vì có lẽ ông cũng còn nhớ trước đây ông đã từng gởi sách qua nhờ tôi hiệu
đính những sai lầm căn bản về kiến thức sử học của ông để ông xuất
bản. Nếu lúc đó tôi dùng ngôn ngữ trịch thượng, thiếu lễ độ với ông,
thì chắc chắn chẳng giúp ích gì cho ông Lữ Giang cả. Bây giờ xem như
ông hiệu đính bài tôi viết, thì cũng tốt thôi nhưng với ngôn ngữ từ tốn thì có
lẽ hữu ích hơn. Suốt đời chúng ta luôn luôn phải học hỏi, và tôi
cũng đang khao khát học hỏi đây, ông Lữ Giang. (Tác giả Trần Gia Phụng)
Ông Lữ Giang chống việc
chụp mũ “cộng sản” hay “chống cộng”, chống việc chụp mũ “lề trái” hay “lề
phải”, nhưng ông Lữ Giang là người chụp mũ tất cả những ai viết trái ý ông là
“lề phải”, rồi “phịa sử”, hết người nầy phịa sử đến người khác phịa sử, trong
khi ông viết như thế nào, phịa hay không phịa, thì thiên hạ biết rõ.
Một điều tôi muốn nói
trước với ông Lữ Giang là tôi chưa bao giờ tự nhận tôi là “sử gia”. Trong
những lần phỏng vấn trên các đài phát thanh, truyền hình hay trên báo, tôi luôn
luôn xác nhận tôi là người học sử, nghiên cứu sử và cố gắng viết sử, chứ chưa
bao giờ tôi tự nhận tôi là sử gia. Nếu có báo hay đài truyền thanh
hay truyền hình gọi tôi là sử gia, thì đó là quyền của họ, tôi không thể cấm họ
được.
Ông Lữ Giang nên lưu ý là
nếu tôi viết “phịa sử”, thì người ta thấy ngay, hiểu ngay và không tử tế với
tôi đâu. Ông Lữ Giang cố gắng viết cho đàng hoàng, nghiêm túc, tự
nhiên sẽ có nhiều người gọi ông là “sử gia”. Ông khỏi phải nhọc công
xoi mói.
Bây giờ, tôi xin trả lời
từng điểm ông Lữ Giang đã đưa ra.
1) Chuyện ải
Nam Quan: Dù ông Lữ Giang nói lui nói tới theo ý của ông, nhưng ông không
thể chối cãi rằng ải Nam Quan có hai nghĩa: ải Nam Quan là một cái đèo hay đoạn
đường đèo và kiến trúc trên đèo. Trên đoạn đường đèo đó có hai phần kiến
trúc: kiến trúc của Trung Hoa và kiến trúc của Việt Nam.
Ngang qua mặt ải do người
Trung Hoa xây trước là ranh giới giữa hai nước. Hình ảnh vẫn còn đó. Bây
giờ, Trung Cộng đã nuốt luôn công trình kiến trúc của Việt Nam và nuốt luôn
đoạn đường đèo đó, thưa ông Lữ Giang. Nếu ông bảo tôi phịa, thì xin
hỏi ông công trình kiến trúc về phía Việt Nam do người Pháp chụp hình còn lưu
lại, nay nằm ở đâu?
2) Bài đăng
báo: Bài “Lý do cuộc đảo chánh 1-11-1963” tôi không đăng trên
dconline.net (Lữ Giang viết 2 lần trong bài của Lữ Giang), mà tôi đăng trên
danchimviet online edition. Xin lưu ý ông LG có hai web site là
D.C.V. Online và Danchimviet online edition. Tôi đăng trên Danchimviet online
edition và Danchimviet online edition cũng không sợ ông đến nỗi như ông nói mà
rút bài tôi lại.
Vì bài vở càng ngày càng
chồng chất, nên những bài gởi lâu phải vào hồ sơ lưu trữ, nhường chỗ cho bài
khác. Không phải riêng danchimviet online mà báo nào cũng
thế. Bây giờ ông Lữ Giang cứ vào kho lưu trữ của web site nầy thì sẽ
thấy ngay bài tôi vẫn còn đó. Như vậy, không biết ông Lữ Giang hấp
tấp lộn địa chỉ web site, hay cố tình phịa ra để cho oai, vì người ta sợ bài
của Lữ Giang nên phải cất bài Trần Gia Phụng? Mới nhập đề đã thấy ai
phịa rồi?
3) Ai ban hành
dụ số 10?: Tôi viết: “Chính sách tôn giáo của chính phủ Diệm dựa
trên Dụ số 10 do chính phủ Trần Văn Hữu ban hành ngày 6-8-1950 dưới thời quốc
trưởng Bảo Đại.” Ông Lữ Giang tỏ ra rất hiểu biết về pháp luật,
nhưng sau khi nói quanh co một đoạn về Trần Văn Tuyên, ông Lữ Giang lại viết: “Ông
[luật sư Trần Văn Tuyên] đã trình Thủ tướng Trần Văn Hữu phê chuẩn và gởi qua
Pháp cho Bảo Đại ký, vì lúc đó Bảo Đại đang ở Pháp.” Trước sau
gì cũng Trần Văn Hữu và Bảo Đại. Vậy tôi viết đúng sự thật hay tôi
phịa ra, thưa ông Lữ Giang?
4) Ở mô cũng
như rứa (từ ngữ của Lữ Giang): Ông Lữ Giang cho rằng: “ông Trần Gia
Phụng không hề biết rằng các quốc gia lớn trên thế giới (như Pháp và Mỹ) cũng
quy định không khác gì Dụ số 10, vì Dụ số 10 cóp luật về hiệp hội của Pháp.” Ông
nói đúng, tôi không hề biết và cũng không cần biết những điều trên thế giới, vì
biết để làm gì? Tôi chỉ cần biết tại Việt Nam, dưới thời chính phủ Ngô
Đình Diệm, việc treo cờ được quy định như vậy, và được chính quyền
Diệm giải thích và thi hành theo cách của chính phủ Diệm, chứ không thi hành
theo cách các nước ngoài.
Giải thích và thi hành
của chính phủ Diệm như thế nào thì cở tuổi chúng ta, ông và tôi ai cũng biết. Nếu
nói đến tài liệu của Đỗ Mậu hay của Vũ Ngự Chiêu ông đều chê, thì mời ông vào
thêm những tài liệu khác của Trần Văn Đôn, Nguyễn Trân, và nhất là tài liệu của
linh mục Cao Văn Luận (chương 13: “Chế độ bắt đầu nứt rạn”). Linh
mục Luận là một tu sĩ Ky-Tô giáo, không lẽ lại phịa ra để nói không tốt về ông
giám mục và ông tổng thống đồng đạo hay sao?
Sau đây là lời Linh mục
Cao Văn Luận nói với đại sứ Nolting ngày 14-5-1963 tại Sàigòn: “Cách đây chỉ
ít tháng, có nhiều cuộc lễ bên Công giáo, như lễ tựu chức của giám mục (Ngô
Đình Thục], và các cuộc rước kiệu, bên Công giáo đã treo cờ khắp nơi bên ngoài
khuôn viên nhà thờ, sao lúc ấy không có lệnh cấm, và không thi
hành lệnh cấm một cách nghiêm chỉnh.” (Linh mục Cao Văn Luận,
Bên giòng lịch sử 1940-1975, Sacramento: TanTu Research tái bản, 1983, tr.
233.)
Như thế, trong việc thi
hành luật của chính phủ Diệm có khác nhau giữa Công giáo và Phật giáo không,
thưa ông Lữ Giang? Chính cái khác nhau đó giải thích câu “chế độ đặc
biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia-Tô…”, chứ cần chi phải giải
thích dài dòng.
5) Dụ số 10
không quy định việc treo cờ: Theo ông Lữ Giang giải thích, dụ số 10
không quy định việc treo cờ mà việc treo cờ được ấn định trong văn kiện bộ Nội
vụ năm 1962. Thưa ông Lữ Giang, đó là văn kiện nào thế? Văn kiện đó
xuất hiện ngày nào, xin ông Lữ Giang vui lòng cho biết để chúng ta cùng vào
Công báo Việt Nam Cộng Hòa tìm lại. Tôi cũng cần tìm lại để học hỏi
thêm.
Còn tướng Trần Tử
Oai là đại diện của chính phủ Diệm, thì phải nói tốt cho chính phủ Diệm, chứ
tướng Oai biết nói gì hơn? Nếu ông Lữ Giang là luật sư bào chữa, ông luôn
luôn phải nói tốt cho thân chủ của ông. Trường hợp tướng Trần Tử Oai, nếu ông
Oai nói khác thì sẽ bị lột lon, cách chức nếu không thì đi tù. [Tôi xin thêm: Tôi
đã bỏ nhiều thời giờ để tìm trong sách Hai mươi năm qua của Đoàn Thêm về văn
kiện của bộ Nội vụ năm 1962 mà Lữ Giang ông nói đến, nhưng tôi không
thấy. Ông Lữ Giang có gặp trong sách đó thì xin cho tôi biết.]
Riêng tài liệu mà
tôi có, thì nghị định số 358-BNV/KS ngày 9-7-1963 ấn định thể lệ treo cờ Phật
giáo, và nghị định số 396/NV/KS ngày 29-7-1963 áp dụng thể lệ treo cờ cho các
môn phái công nhận Phật giáo kỳ. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua
1945-1964 việc từng ngày, California: Nhà xuất bản Xuân Thu tái bản không đề
năm, tt. 254, 256.)
Hai nghị định nầy xuất
hiện sau biến cố Phật giáo ở Huế và trước khi phái đoàn Phật giáo Thế giới đến
Sài Gòn ngày 24-10-1963, nên tướng Trần Tử Oai mới dựa vào đó để trả
lời. Ở đây, ông Lữ Giang ghi thêm một điểm phịa nữa là văn kiện của
bộ Nội vụ ký vào tháng 7-1963 được ông Lữ Giang hóa phép thành năm 1962, để bào
chữa cho lập luận của ông. Ai phịa thế ông Lữ Giang?
6) Ngụy luận
vì thiếu hiểu biết: Ông Lữ Giang viết: “Điều thứ 44 (không phải
điều 45 như ông Trần Gia Phụng nói) của Dụ số 10 có quy định: “Chế độ đặc biệt
cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô và các Hoa kiều Lý sự hội sẽ ấn
định sau.” Căn cứ vào điều luật này, các tăng sĩ Phật giáo đấu
tranh và ông Trần Gia Phụng cho rằng Dụ số 10 đã ưu đãi Thiên Chúa Giáo (không
nhắc gì đến Hoa Kiều Lý Sự Hội)! “ (Ông Lữ Giang in đậm)
Như đã trình bày ở trên,
luật lệ là một việc, giải thích và thi hành là một việc. Cách giải
thích của ông Lữ Giang dựa vào sự thỏa thuận giữa hai chính phủ Pháp và Quốc
Gia Việt Nam theo Hiệp định Élysée. Nếu chính phủ Diệm hiểu như vậy,
và tỏ ra công bình trong việc treo cờ thì làm gì sinh chuyện?
Đàng nầy, chính phủ Diệm
hiểu theo cách của chính phủ Diệm: Đó là “Chế độ đặc biệt” nghĩa là
không bị ràng buộc vào dụ số 10 nên như lời Linh
mục Cao Văn Luận nói với đại sứ
Nolting: “bên Công giáo đã treo cờ khắp nơi bên ngoài khuôn viên
nhà thờ, sao lúc ấy không có lệnh cấm, và không thi hành một lệnh cấm một cách
nghiêm chỉnh”. Trong trường hợp nầy ai là người ngụy luận và
thiếu hiểu biết thưa ông Lữ Giang? Không lẽ là Linh mục Cao Văn Luận?
7) Chuyện “Bể
tan vì chế độ đặc biệt” không liên hệ đến bài nầy.
8) Chuyện giám
mục Ngô Đình Thục vận động để dược phong hồng y: Ông Lữ Giang đưa ra ba điều
kiện để được phong hồng y:
“1) Nếu
lúc đó Toà Thánh Vatican muốn nâng một giáo sĩ Việt Nam lên làm Hồng Y thì
người đó phải là Tổng Giám Mục Hà Nội hay Sài Gòn chứ không phải là
Huế.
(2)
Số giáo dân được rửa tội hàng năm đều phải ghi vào sổ rửa tội và báo cáo cho
Toà Thánh biết, nên ông Diệm không thể muốn bắt ghi bao nhiêu giáo dân cũng
được.
(3)
Việc suy cử một giáo sĩ làm Hồng Y thường dựa vào đề nghị của Hội Đồng Giám Mục
và Khâm Sứ Tòa Thánh chứ không bao giờ dựa vào những chuyện vớ vẫn như thế.”
Không ai cãi những
điều ông Lữ Giang đưa ra, nhưng đây là những điều kiện để Tòa thánh Vatican xét
phong hồng y; còn việc vận động để được phong hồng y là hoàn toàn chuyện
khác. Nguyễn Tất Thành khi đến Paris năm 1911 đâu có đủ điều kiện để
vào học trường Thuộc Địa Paris, mà vẫn làm đơn xin nhập học. Do đó giám
mục Thục vận động là một việc, còn Tòa thánh Vatican chấp thuận hay không là
việc khác. Lúc đó, mới xin ông Lữ Giang mở luật của Tòa thánh ra.
Nếu sống trên đời ai cũng
thực hiện đúng theo luật lệ thì làm gì có chuyện mà bàn. Khổ nỗi, có
nhiều người xem thường luật lệ, muốn làm theo ý mình mới sinh ra nhiều
chuyện. Mời ông Lữ Giang hãy đọc câu nói của giám mục Ngô Đình Thục
với Linh mục Cao Văn Luận tại Huế ngày 9-5-1963: “Những anh công chức và
quân nhân nào mà treo cờ Phật giáo hôm ấy, tôi sẽ cho nó lên Ban Mê Thuột hay
Pleiku. Còn mấy anh “trọc” chùa Từ Đàm nếu cứ lộn xộn thì sẽ cho đi Côn đảo.”
(Cao Văn Luận, sđd. tr. 232.) Đây là tôi trích nguyên văn lời tường
thuật của một linh mục Ky-Tô giáo La Mã chứ không phải là “phịa sử”, thưa ông
Lữ Giang.
Ông Ngô Đình Thục quyền
uy như thế thì chuyện ông vận động để được phong hồng y là chuyện có
thể xảy ra. Giám mục Thục vận động làm hồng y là chuyện dân chúng
lúc đó bàn tán xôn xao và một số tài liệu ghi lại. Ngoài việc vận
động để được phong hồng y, trong giới Ky-Tô hữu, ai cũng biết những hoạt động
của giám mục Thục. Có lẽ ông Lữ Giang không cần nhắc chuyện dài của giám
mục Thục bị Đức giáo hoàng treo chén vì phạm luật sau năm 1975? Có
cần thiết không ông Lữ Giang?
9) Viết
theo “lề đường bên phải”: Như trên đã nói, bất cứ ai không viết
theo ý ông LG đều bị ông Lữ Giang chụp cho một cái mũ là “phịa sử”, “lề
phải, lề trái”, trong khi chỉ riêng trong phạm vi bài nầy, tôi đã chứng
minh ông Lữ Giang hơn một lần phịa chuyện.
Riêng tôi, tôi học
sử và viết lại lịch sử theo những điều tôi hiểu biết và tôi cố gắng tránh thiên
vị và quá khích. Bằng chứng là khi viết về “lý do cuộc đảo chánh ngày
1-11-1963”, tôi viết rằng tổng thống Ngô Đình Diệm chủ trương tập trung
quyền lực. Có người viết e-mail trách tôi là sao không nói ông Diệm độc
tài mà lại nói tập trung quyền lực?
Có thể tôi viết sai vì
sức học kém, vì ít đọc tài liệu, vì những tài liệu tôi dùng bị sai, nhưng chắc
chắn không phải tôi viết theo lề bên phải hay bên trái. Dầu sao, tôi vẫn
cảm ơn ông Lữ Giang vì nhờ ông tôi mới có cơ hội viết thêm về một số vấn đề tôi
chưa viết.
Có một điều cần nhấn mạnh
là cá nhân người nào làm thì người đó chịu trách nhiệm, đừng vì cá nhân đó theo
tôn giáo nầy hay tôn giáo khác mà đưa vấn đề thành sự đối đầu tôn giáo rất nguy
hiểm. Ví dụ trường hợp tôi viết về chế độ Ngô Đình Diệm, thì chế độ Diệm
có điểm tốt mà cũng có điểm không tốt. Rủi một điều là cái điểm không tốt
nguy hại nhất cho chế độ Diệm chính là vụ treo cờ Phật giáo mà ai đã từng ở
miền Trung, nhất là ở Huế và Đà Nẵng đều thấy và biết.
Chuyện nầy cũng được các
tác giả Ky-Tô giáo viết lại, ví dụ cụ thể nhất là linh mục Cao Văn Luận. Từ
cái điểm không tốt nầy mới nẩy sinh ra đủ thứ chuyện, làm sụp đổ chế độ
Diệm. Cái điểm không tốt nầy thuộc về trách nhiệm cá nhân hai ông Ngô Đình
Thục và Ngô Đình Diệm chứ không liên hệ gì đến Ky-Tô giáo cả. Phải tách
bạch rõ ràng như thế để tránh những hiểu lầm đáng tiếc, những chụp mũ vu vơ.
Như thế, tôi đã trả lời
ông Lữ Giang từng điểm một. Cuối cùng, vì ông đã dùng một điển tích cũ để
kết luận bài của ông, nên tôi cũng xin phép dùng một điển tích cũ để kết luận
bài nầy. Trong Phật pháp, chuyện xưa kể rằng một hôm Đức Phật đến truyền
giáo tại một xứ nọ, có một người đàn bà đến dâng lễ lên Đức
Phật. Ngài biết rằng người đàn bà nổi tiếng hỗn láo trong làng, nên
Ngài hỏi: “Ngươi biếu cho ta những thứ nầy, nếu ta không nhận thì ngươi làm
gì?” Bà ta trả lời “Nếu ông không nhận thì tôi đem về.” Đức
Phật ôn tồn bảo: “Lâu nay ngươi hỗn hào chửi rủa người ta, người ta không
nhận, vậy người hãy nhận lại đi.”
Vâng tôi xin tặng
ông Lữ Giang câu chuyện nầy để từ nay về sau, ông phê bình lịch sự, nghiêm túc,
tôi xin tiếp thu, học hỏi. Còn nếu với ngôn ngữ như trong bài viết “Viết
cho đúng sự thật”, thì xin ông tự mang về, chứ sẽ tôi không trả lời.
*.
TRẦN GIA PHỤNG
Nguyên quán: tỉnh Quảng
Nam.
Định cư tại: Toronto,
Canada.
Email: trangiaphung@gmail.com
.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: tranchicuong27@yahoo.com.vn,
ngày 12.06.2017.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét