KHI CHỮ LÀM MÙ MẮT: MỘT NỖI BUỒN
CHO PHÊ BÌNH NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
Có những lúc, tôi cảm thấy sợ hãi cho nghệ thuật không phải vì
công chúng thờ ơ, mà vì người lên tiếng về nó lại là những kẻ không biết mình
đang nói gì.
Một xã hội không thể khai sáng nếu kẻ cầm đèn cũng mù, nhưng đáng
buồn là trong đời sống nghệ thuật Việt Nam hôm nay, ánh sáng đang bị thay bằng
đèn màu của ngôn từ, lấp lánh, nhưng giả.
Và giữa những ánh đèn ấy, ta thấy nổi bật lên một kiểu nhân vật
quen thuộc: Nguyễn Thanh Sơn, người viết giỏi, biết dùng chữ, biết câu cú, biết
tạo hiệu ứng, nhưng không biết nhìn.
Ông đến với hội họa bằng giọng điệu của một “người hiểu biết”,
nhưng nói bằng thứ ngôn ngữ của một người làm truyền thông, quảng cáo, nơi điều
quan trọng không phải là hiểu, mà là nói cho hay.
Và bi kịch bắt đầu từ đó.
Khi hội họa bị kể lại như một truyện ngắn
Những bài viết của ông Sơn, từ “Bùi Tiến Tuấn – Biến tấu của
lụa”, “Cái giả của nỗi đau – Phạm Trần Việt Nam và ảo tưởng của hình
thức”, đến “Tự Sự hay Tự Họa?” về Tào Linh, có một điểm chung: văn
chương tuyệt đẹp, nhưng hoàn toàn vô minh về thị giác.
Ông miêu tả tranh như đang kể chuyện tình: “Lụa biết thở, ánh sáng rì rầm, sơn dầu ngân như trí nhớ…”.
Nghe rất hay, rất mềm, nhưng nếu đem đọc trước một sinh viên mỹ
thuật, họ sẽ bối rối: “Thầy ơi, vậy ánh
sáng nằm ở đâu? Bố cục ra sao? Cấu trúc màu thế nào?”
Không ai trả lời được, vì đó không phải phê bình, mà là thơ mô tả
cảm xúc.
Phê bình mà không đọc được cấu trúc của hình, bố cục của khối,
nhịp điệu của sáng tối, thì dù viết bao nhiêu chữ vẫn chỉ là người mù đang miêu
tả cầu vồng bằng trí tưởng tượng.
Khi sự tự tin vượt xa hiểu biết
Ông Sơn có thể là người viết văn tốt, nhưng không hiểu rằng hội
họa không phải là thứ để “kể”, mà là
thứ để “thấy.”
Điều khiến giới nghệ thuật mệt mỏi không phải là ông sai, mà là
ông sai với sự tự tin của người tin rằng mình đúng.
Ông thường xuyên mượn những khái niệm nghe sang miệng như “abstraction lyrique”, “thiền họa hiện đại”, “tinh thần ukiyo-e” để tạo vẻ uyên bác.
Nhưng với ai hiểu nghề, đó là sự trộn lẫn tai hại giữa khái niệm và ngôn từ.
“Abstraction lyrique” là
trừu tượng cảm tính phương Tây sau Thế chiến II, “ukiyo-e” là in mộc bản Nhật thế kỷ 18, còn “thiền họa hiện đại” lại thuộc một truyền thống Á Đông hoàn toàn
khác.
Gộp cả ba vào một họa sĩ Việt Nam chỉ cho thấy sự lẫn lộn tri thức
và lộng ngôn của người không có gốc.
Nói cách khác: ông không biết mình đang nói về ai và đang đứng ở
đâu trong bản đồ lịch sử mỹ thuật, nhưng lại nói bằng giọng của kẻ đã “nhìn hết.”
Đó không còn là tự tin, mà là tự mãn của người không biết giới hạn
của mình.
Khi không hiểu gì về nghệ thuật đương đại mà dám phán hậu hiện đại
Đỉnh điểm của sự lệch lạc nằm trong bài viết về Phạm Trần Việt
Nam.
Một nghệ sĩ trẻ đang đi trong dòng chảy của nghệ thuật đương đại,
nơi chất liệu, vật thể và ý niệm hòa làm một, lại bị ông quy kết rằng “giả”, “phô thương tích”, “bạo lực kỹ
thuật”, “thiếu ánh sáng của linh hồn”.
Những câu nói ấy, nghe qua tưởng sâu, nhưng thực chất chỉ bộc lộ
sự không hiểu gì về bản chất của nghệ thuật hiện đại, càng không hiểu nổi hậu
hiện đại.
Hội họa hiện đại, từ đầu thế kỷ 20, đã rời bỏ cái đẹp kinh viện.
Nghệ thuật đương đại, từ hậu 1970, rời bỏ chính hội họa để đi vào
ý niệm, khái niệm, vật chất và ngôn ngữ xã hội.
Ở đó, “bạo lực chất liệu”
không phải là sai, mà là một phương thức phản ánh.
“Giả” không phải đối lập
với “thật”, mà là một tầng nghĩa của
sự tự ý thức về tính trình diễn trong sáng tạo.
Phạm Trần Việt Nam không “phô
diễn thương tích”; anh giải phẫu nỗi đau bằng ngôn ngữ vật chất.
Nhưng ông Sơn, với lối tư duy đạo đức học, lại đọc nó như một trò
phô trương cái tôi.
Bởi trong đầu ông, nghệ thuật vẫn phải “đẹp, yên, nhân hậu”, vẫn còn đứng ở cột mốc của thế kỷ 19 mà phán
về thế kỷ 21.
Nói một cách buồn bã: ông không hiểu ngôn ngữ tạo hình của hiện
đại, cũng chẳng hiểu tư duy khái niệm của hậu hiện đại, nhưng lại phán như đúng
rồi.
Và phán bằng giọng của một người làm truyền thông một chiều, tin
rằng mình đang “khai sáng”, trong khi
thực ra chỉ đang tung thêm một màn khói mù lên bầu trời vốn đã đục.
Khi công chúng bị ru ngủ bằng mỹ từ
Những bài viết ấy, đầy chữ đẹp, khiến công chúng tưởng mình được
khai sáng, nhưng thật ra chỉ được ru ngủ.
Nghe những câu như “lụa ngân
như hơi thở”, “ánh sáng có âm học”,
người đọc thấy thăng hoa, nhưng họ không hiểu gì thêm về tranh, về ánh sáng, về
hình thể.
Họ chỉ biết “thấy hay”
mà không biết “nhìn”.
Và khi công chúng không còn phân biệt giữa phê bình và kể chuyện,
giữa hiểu và cảm, nghệ thuật mất luôn người nghe thật.
Phê bình trở thành nghi lễ của sự ngây ngất.
Nó không dẫn đường, nó chỉ dắt tay người ta đi vòng quanh cái tôi
của người viết.
Khi tri thức bị thay bằng giọng điệu
Cái đáng sợ nhất không phải là ông Sơn không biết, mà là ông dùng
giọng của kẻ biết tất cả.
Giọng văn ấy, tưởng sang trọng, thực ra lại ngạo mạn trong sự
thiếu nền tảng.
Nó là thứ giọng của truyền thông: chắc nịch, đơn tuyến, hiệu ứng,
slogan hóa.
Nhưng nghệ thuật không phải quảng cáo.
Hội họa không phải sản phẩm để “bán bằng lời”.
Khi ngôn ngữ truyền thông xâm chiếm diễn ngôn phê bình, nghệ thuật
bị biến thành một chiến dịch PR cảm xúc.
Và công chúng, thay vì được mở mắt, chỉ được tẩm liệm bằng từ ngữ.
Một xã hội nguy hiểm khi người mù chỉ đường
Tôi không ghét Nguyễn Thanh Sơn; tôi chỉ buồn cho ông và cho chúng
ta.
Bởi lỗi không chỉ ở ông, mà ở cả xã hội đã đưa người không có nhãn
quan thị giác lên làm người dẫn đường cho hội họa.
Ở một đất nước mà “người
viết hay” được tin hơn “người nhìn
giỏi”, nghệ thuật sớm muộn gì cũng bị giam trong cái lồng của ngôn từ.
Chúng ta đang sống trong một thời mà người mù chữ về hình dạy
người khác cách thấy, còn người họa sĩ thì sợ viết, và người viết thì tưởng
mình vẽ được bằng lời.
Một xã hội như thế, thật khó mà không cảm thấy vừa nực cười, vừa
đáng thương.
Lời nhắc cuối cùng cho cả ba phía
– Với người cầm bút: Hãy nhìn trước khi nói. Hãy học im lặng trước
khi giảng giải. Đừng biến ngôn từ thành tấm rèm che tri thức.
– Với họa sĩ: Hãy học cách chủ động kể câu chuyện của mình, để tác
phẩm được đặt trong đúng bối cảnh và cảm hứng mà nó sinh ra.
– Với công chúng: Hãy nghe ít đi, nhìn nhiều hơn. Tin vào mắt,
không vào giọng.
Nguyễn Thanh Sơn không phải hiện tượng lạ, mà là biểu tượng của
một căn bệnh văn hóa: khi ngôn từ lên ngôi, còn hiểu biết thì biến mất.
Khi tri thức bị thay bằng giọng điệu, còn phê bình trở thành sân
khấu của những kẻ không biết nhìn.
Và trong khi những người mù thị giác đang múa bút, ánh sáng, linh
hồn của hội họa, đang dần tắt đi trong đôi mắt người xem.
Phê bình, nếu không giúp ta nhìn rõ hơn, thì chỉ là một trò diễn
của sự mù.
Và bi kịch lớn nhất của nghệ thuật hôm nay, là những kẻ không hiểu
gì lại đang dạy người khác cách hiểu.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Yếu tố đồng tính
trong thơ Đỗ Anh Tuyếnl
- Thơ Trần Đức Tín -
Vài trao đổi với Vũ Thị Hương Mail
- Hôn quân Lưu Tử
Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệtl
- Vài cảm nhận khi
xem phim BỐ GIÀ (web drama) của Trấn Thànhl
- Đọc Nguyễn Xuân
Dương bình thơl
- Thầy phong thủy Bùi
Đồng và những comment bình thơl
- Chuyện về thầy xem
tướng Bùi Cao Thếl
- Một chút tâm sự khi
đọc thơ Nguyễn Tuyểnl
- Về phong cách
bình thơ của Châu Thạchl
- Nguyễn Hoàng Đức
qua mấy bài viết tôi đã đọcl
- Meta Ai “cảm
nhận” 14 bài thơ độc vận 7 chữ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Phong cách độc
đáo và khác biệt trong thơ về rượu của Đặng Xuân Xuyếnl
- “Ký ức đêm” của
Đặng Xuân Xuyến: những khoảnh khắc thơ hay hay những mảnh vụn ngôn từl
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc
bài thơ TRÒ ĐỜI:
Ngô Nguyễn giới thiệu
Tác giả: Sophie Trịnh - Nguồn: facebook
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.



0 comments:
Đăng nhận xét