TÂY TIẾN -
TUYỆT CHIÊU CỦA QUANG DŨNG
*
I- Tiểu sử Quang Dũng:
(Nhà thơ Quang Dũng) |
Quang Dũng tên thật là
Bùi Đình Dậu (tức Diệm) sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, tổng Đại Phùng,
huyện Đan Phượng (Hà Tây). Quang Dũng là lấy tên con trai làm bút danh (năm
1952 viết tập ký sự" Đoàn võ trang tuyên truyền Việt-Lào", ký tên là
Trần Quang Dũng. Cụ thân sinh là một chức dịch, mẹ là người phụ nữ đảm ven Đô (làm
ruộng và buôn bán nhỏ). Gia đình khá giả nên Quang Dũng gửi ra Hà Nội học văn,
học võ, học vẽ, học đàn... để sau này,trong lĩnh vực nào anh cũng có những
thành tựu đáng kể, trong đó kiệt xuất phải nói là thơ.
Từ sau ngày Tổng khởi
nghĩa 19-8-1945, Quang Dũng được cử làm Phái viên Quân Sự Bắc Bộ, làm công việc
cất dấu máy móc quân sự, đi các địa phương tìm mua súng đạn, giành chiếc máy
bay Nhật ở Ba Vì. Rồi với tư cách Chính trị viên phó Đại đội Tổng vệ binh Cảnh
vệ Khu 2... khoảng cuối năm 1947 anh gia nhập đoàn quân Tây tiến. Sau một thời
gian chiến đáu ở Lào trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 51 .Đại đội trưởng
Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn
vị cũ,chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (Kim Bảng-Hà Nam) thi sĩ bồi hồi viết
"nhớ Tây tiến", bài thơ xuất thần viết liền một mạch trong một đêm đẻ
trở thành kiệt tác thơ Việt Nam thế kỷ XX.
Trước Tây
tiến, Quang Dũng đã có "Đôi mắt người Sơn Tây" rất nổi
tiếng với "Vầng trán em mang trời
quê hương/ mắt em dìu dịu buồn tây phương/ Tôi nhớ xứ Đoài mây trăng lắm...".
Về Nhạc thì có "Ba Vì mờ cao" với "từ xa thương nhớ Ba Vì ơi !/ thời gian như
muồn phai bóng người/ giang hồ dừng bước/ nhớ nhung Ba Vì ơi!”
Sau Tây tiến còn là "Những
làng đi qua", "Vườn ổi", "Em
mãi là tuổi 20", "Mây đầu ô",,, cũng như các bài
buổi đầu làm thơ "Chiêu Quân", "Cố
Quận" đều là nhữn bài thơ hay riêng một chất thơ Quang Dũng.
Nếu ví Hoàng Cầm (thơ)
là tinh hoa của hồn quê Quan họ thì Quang Dũng là "bạch vân thiên tải không du du" là hồn thơ của mây trắng xứ
Đoài với "Sông Đáy chậm nguồn qua
phủ Quốc? sáo diều khuya khoat thổi đêm trăng" cùng "mây ở đầu ô mây lang thang..."
Lang thang lãng tử thích
ngao du sơn thuỷ đi đó đi đây là kiếp đoạn trường của đời nghệ sĩ... cái tinh
thần thượng võ, cái khí, cái thần của người thơ ấy được đúc nên từ lòng yêu que
hương xứ sở - yêu đời, đời đẹp như thơ, như đời người chiến sĩ chỉ biết hi
sinh, chỉ biết phụng sự lý tưởng và đất nước mà nhà thơ đã đi trọn cuộc
đời.
Nhà thơ Quang Dũng từ
trần ở Hà Nội ngày 14-10-1988. Ông đã được Giải thưởng Nhà Nước về Văn học. Bài
thơ Tây tiến đã được chọn một đoạn khắc
vào Đài tưởng niệm các Liệt sĩ Tây tiến ở Châu Trang, xã Thượng Cốc, huyện Lạc
Sơn (Hoà Bình) ngày 20-12-1990, và tượng đồng bán thân của Vệ Quốc Quân Quang
Dũng được đặt tại Trường Tiểu học quê nhà là một minh chứng về sự tôn vinh của
Nhà Nước - Nhân dân đối với Nhà thơ yêu quí của chúng ta.
II- Về địa danh Tây Tiến
(Tác giả Nguyễn Khôi) |
Thời điểm 1947 thuộc "Đội
vũ trang tuyên truyền Tây Tiến (trung đoàn 52). Ban chấp hành Đội gồm đồng chí
Đoàn Hải làm chỉ huy trưởng, đồng chí Phúc Thảo làm chỉ huy phó, Văn Sinh và Quang
Dũng làm uỷ viên. Trong 2 năm 1947-1948 quân ta đả bám sát quần nhau với địch ở
vùng biên giới Việt-Lào, ngoài sự hy sinh, tổn thất trong chiến đấu, trên 200
chiến sĩ Tây tiến đã ngã xuống vì bệnh sốt rét ác tính, suy dinh dưỡng... (đoàn
binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá...) là vậy!
Mường Lát là một bản dân
tộc Thái vùng biên giới Việt-Lào, bên tả ngạn Sông Mã(Thanh hoá) nhưng lại giáp
với Mộc Châu (Sơn La) về phía bắc, giáp Hoà Bình về phía nam. Núi rừng ở đây
trùng điệp lên tới tận Sài Khao, nơi cư trú của bản Người dân tộc Dao (Man, Mán - "khèn lên Man điệu...") quanh
năm sương phủ. Mùa mưa ở Mường Lát, cả đất trời đẫm trong hơi nước như mây khói
bốc lên ngùn ngụt, mịt mù trong đêm. Hành quân từ rừng về bản, bộ đội phải đốt
đuốc soi đường. Câu thơ "Mường Lát
hoa về trong đêm hơi" là thi sĩ đặc tả "lửa" ở đây được cách
điệu thành "hoa" (như kiểu" đầu tường lửa lựu lập loè đâm
bông")
Câu "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa" là
câu thơ tài hoa,làm ta liên tưởng tới câu ca dao xứ Mường:
Trăm thứ hoa không bằng
hoa con gái
trăm thứ trái không bằng
trái bông cơm
trăm thứ thơm không bằng
thơm con mái...
Mà trái bông cơm là lúa
gạo, con mái là con gái tuổi dậy thì... Các chàng trai "Vệ Trọc" (đầu
trụi không còn tóc) vừa ở rừng ra thấm đượm tình nghĩa Quân dân, được các em
(hoa rừng) chèo thuyền đi đón... thì làm sao quên được "hồn lau nẻo bến bờ"? Thơ Quang Dũng
vừa trữ tình vừa bi tráng là vậy!
III- Bài thơ buổi đầu trình làng:
Theo tạp chí Văn nghệ số
11-12 tháng tư, tháng năm năm1949 - Văn nghệ Bộ Đội của Hội Văn Nghệ Việt Nam -
Thư ký Toà Soạn: Nguyễn Huy Tưởng thì bài thơ in ở trang 17, toàn văn như sau:
NHỚ TÂY TIẾN
Sông Mã xa rồi, Tây tiến
ơi
Nhớ về rừng nui, nhớ
chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn
quân mỏi
Mường Lát hoa về trong
đêm hơi;
Dốc lên khúc khuỷu dốc
thăm thẳm
Heo hut cồn mây súng
ngửi trời;
Ngàn thước lên cao ngàn
thước xuống
Nhà ai Pha Lương mưa xa
khơi.
Anh bạn dãi dầu không
bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên
đời...
Chiều chiều oai linh
thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp
trêu người.
Nhớ ôi! Tây tiến cơm lên
khói
Mai châu mùa em thơm nếp
xôi.
Tây tiến đoàn binh không
mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai
hùm
Mắt trừng gửi mộng qua
biên giới
Đêm mơ Hà Nọi giáng kiều
thơm.
Rải rác biên cương mồ
viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng
tiếc ngày xanh
Áo bào thay chiếu anh về
đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc
hành.
Tây tiến người đi không
hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một
chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân
ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi.
QUANG DŨNG
(Đoàn quân nhân văn nghệ
L.K.3)
Chú ý: Pha Lương = Pha luông.
giáng kiều = dáng kiều.
Bài thơ thiếu hẳn 1 đoạn
8 câu "doanh trại bừng lên hội đuốc
hoa... trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"
IV- TÂY TIẾN
Sông Mã xa rồi Tây tiến
ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ
chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn
quân mỏi
Mường Lát hoa về trong
đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc
thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng
ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi
Anh bạn dãi dầu không
bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên
đời!
Chiều chiều oai linh
thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp
trêu người
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên
khói
Mai Châu mùa em thơm nếp
xôi
Doanh trại bừng lên hội
đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao
giờ
Khèn lên man điệu nàng e
ấp
Nhạc về Viên Chăn xây
hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều
sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến
bờ
Có nhớ dáng người trên
độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa
đong đưa
Tây tiến đoàn binh không
mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai
hùm
Mắt trừng gửi mộng qua
biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm
Rải rác biên cương mồ
viễn xứ
Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh
về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc
hành
Tây tiến người đi không
hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một
chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân
ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi.
(Phù Lưu Chanh, 1948)
V- Nhà thơ Xuân Diệu phê bình TÂY TIẾN:
"...Bài thơ hơi
buồn, có đoạn buồn lắm: tứ thơ không mới, có những câu văn hoa. Nhưng toàn bài
rung rung như những dây đồng. Đọc lên, trong miệng còn ngân âm nhạc. Cái cảnh miền
Tây gian nan đặc biệt: bộ đội Tây tiến là một trong những bộ đội nhiều hy sinh.
Đánh giặc đã đành, mà người với rừng núi còn tranh nhau ai thua ai được. Một
bạn tôi lên thăm bộ đội quá thượng du Thanh Hoá, trên biên giới Việt-Lào kể
rằng: "Núi giăng màn trùng điệp; một anh đội viên chỉ quãng chập chùng
trước mặt nói: -Một mình tôi phụ trách 5 cây số núi". Lên đến nguồn Sông
Mã, còn đâu là đồng bằng? Lúc mới đầu chưa quen thổ ngơi, nhiều chiến sĩ chết.
Có lẽ cái rùng rợn buổi đầu ấp sâu vào tâm hồn tác giả. Những chiến sĩ lưa thưa
giữa nghìn trùng rừng núi chắc cảm thấy mình" cheo leo chòi biên
cương", cảm thấy mình lạc đời. Những anh con trai Hànoi lên đến đây cạo trọc
đầu, hay là sốt rét rụng cả tóc, người mặc áo chàm hay là mặt lây sắc lá, hay
là ốm tái màu da; giặc sợ các anh như sợ hùm: nhưng các anh dù thế nào cũng nhớ
HàNoi cho được:
Tây tiến đoàn binh không
mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai
hùm
Măt trừng gửi mộng qua
biên giới
Đêm mơ HàNoi dáng kiều
thơm
Bài thơ chỗ thì đẹp, chỗ
thì ghê, man rợ rồi lại êm ái; đoạn sau cùng đầy những tiếng từ ly. Những tên
đất Sài Khao, Mường Lát,Pha Lương... ngân động. Đến cái tên Sầm Nứa thì câu thơ
buồn mà hay quá; hồn đây là tâm hồn người sống nghĩ chuyện bên Lào:
Tây tiến người đi không
hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một
chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân
ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi.”
VI- Bình của Nguyễn Khôi:
a) Bài bình 1:
TÂY TIẾN là một trong
vài bài thơ hay nhất của thơ Việt Nam 1945-2000. Đọc Tây Tiến, ta cứ ngỡ như
đang đọc một bài Cổ phong - Tương tiến tửu (của Lý Bạch) đương đại? Cái lối
"tráng sĩ hề" - một đi không trở lại ngang tàng hào hoa của các chàng
trai HaNoi (thời1946). Với thủ pháp nghệ thuật độc đáo theo kiểu 1 câu chia 2
vế âm / dương đối nhau:
dốc lên khúc khuỷu/ dốc
thăm thẳm
heo hut cồn mây/ súng
ngửi trời...
đã tạo sự cân bằng hằn
vào trí nhớ của người đọc; còn "đêm mơ HaNoi dáng Kiều thơm" là câu
thơ để đời "tử bất hưu" nghìn năm mới xuất hiện!
Cái tài hoa của thi sĩ
về mặt dùng "chữ" thì xưa nay ít ai có được, ví dụ như: trong bài thơ
có 3 chữ "Hoa" (hoa là ám chỉ về con gái - phái nữ):
- Câu "Mường Lát hoa về trong đêm hơi" đây
là cái "cảm" của Nhà thơ về cái mùi thương yêu ấy (trong bài thơ
"Gửi Tuyên Quang" của Nguyễn Khôi viết sau 45 năm cũng có cái
"cảm" đồng điệu ấy:
Đêm HaNoi đã nhạt mùi
hoa sữa
tưởng tóc ai phảng phất
hương rừng...
- Câu "đêm trại bừng lên hội đuốc hoa": Đuốc
hoa đây là "hoa chúc" tưng bừng của cái "kìa em xiêm áo" với "nàng
e ấp"...
- Câu "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa", Ai
đã từng "đi Châu Mộc chiều sương ấy"
đây là vùng thượng nguồn Sông Mã chung giữa ta và Lào (Sầm Nưa) thường là đi
thuyền mà câu thơ Sống Chụ Son Sao đã tả "Hoa ấy rờn trôi ngang Sông Mã" đôi bờ là hoa rừng và các cô
gái Thái (Việt Nam) - Lào ra sông tắm
giặt...
Câu kết "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" là
thể hiện "làm trai có chí xông trời
thẳm" của anh Bộ đội Cụ Hồ đi giải phóng dân tộc với tinh thần Quốc tế
cao cả!
Quang Dũng với Tây Tiến
đã góp phần đưa thơ Việt Nam đương đại lên môt dỉnh cao nghệ thuật lãng mạn
cách mạng, hoành tráng với tâm chí "Nay
ở trong thơ nên có thép" thật là tuyệt vời Xưa nay hiếm là vậy!
b) Bài bình 2 ( đăng trong thông tin Họ Bùi ở Việt
Nam ):
Cho đến nay Tây
tiến vẫn là một đài thơ (Thi Sơn) đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng
của bài thơ Tây tiến... chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời
thơ, ý thơ, hình tượng thơ giầu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới
lạ và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn
ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ Tây tiến. Cái độc đáo của bài
thơ là không có cấu tứ,c ái kết của bài thơ (của cuộc hành binh) lại không nằm
ở cuối bài mà lại nằm ở 2 câu 13=14/34 :
Nhớ ôi, Tây tiến cơm lên
khói
Mai châu mùa em thơm nếp
xôi
Với Tây tiến, Quang Dũng dưa
ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm, của sự vọng tưởng diệu huyền. Với
Tây tiến, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh Bộ đội Cụ Hồ (Vệ Quốc Đoàn - Vệ Út
- Vệ túm - lính râu ria) thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào
hùng - Cái buổi đầu đi làm cách mạng của những trai tài gái sắc đất Hà thành (và
ven ĐÔ) hiên ngang, hào hoa phong nhã, cái thời "chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh" (tả thực) với "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" (lãng
mạn).
Bút pháp bậc thầy của Tây
tiến là Nhà thơ đã vận dụng sáng tạo kỹ xảo thơ truyền thống (thơ
Đường) với "phép đối" trong từng câu, đoạn thơ, từng khổ thơ tạo ra 2
vế âm / dương, tương phản trong một "Trường đối nghịch" (thủ pháp đối
lập) nhằm tô đậm ý tưởng "không ca ngợi một chiều" mà là phản ánh
đúng hiện thực của cuộc chiến... đó là sự đói chọi, sự
tàn khốc của chiến tranh lấy ý chí (Việt Nam) chọi lại sắt thép (thực dân
Pháp). Thủ pháp đối ý, đối âm trong Tây tiến với những câu thơ ăm ắp hồn
chiến sĩ, tạo nên khẩu khí bi tráng của toàn bài. Đó là lối diễn đạt độc đáo, cao
thủ mà hình như chỉ riêng Quang Dũng một mình trong cõi thơ "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ heo hút
cồn mây súng ngửi trời" để Tây tiến ở một vị trí tượng đài vút lên
trời xanh giữa núi rừng Tây bắc hùng vĩ của Tổ Quốc!
Trong Tây
tiến có một hình tượng thơ đã làm không ít người thắc mắc, đó là "có nhớ dáng người trên độc mộc/ trôi dòng
nước lũ hoa đong đưa"... đó chẳng qua là một từ HOA "ẩn dụ"
cảm từ câu ca dao Xứ Mường "trăm thứ
hoa không bằng hoa con gái" mà con gái Thái - Mường là "bông hoa
rừng" chèo thuyền độc mộc đưa Bộ đội qua sông đang mùa nước lũ... Qua rồi
để nhà thơ lãng mạn lưu giữ một bóng dáng cô lái đò trên "Châu Mộc chiều sương ấy" cứ đong
đưa trong con mắt Người Sơn Tây đẹp đến lạ lùng.
Cái chết (hi sinh) của
người chiến sĩ nay không phải là "da
ngựa bọc thây" mà là "chiến
bào thay chiếu anh về đất" để Sông Mã gầm lên như súng thần công bắn
vang trời tiễn đưa người anh hùng...
Dùng cái bi, cái mất mát
để tôn vinh cái hào hùng... Với cảm hứng lãng mạn cách mạng được đặc tả trên
cái nền hiện thực đã tạo nên âm hưởng, ma lực kỳ diệu của bài thơ Tây tiến rất
kinh điển mà cũng rất hiện đại - Đó là một trong những bài thơ hay nhất của thơ
Việt Nam thế kỷ XX đặt trong hành trang ta mang theo đi vào thế kỷ XXI, hội
nhập cùng làng thơ thế giới hôm nay.
VII- Trao đổi với bạn Ý Như: Về 2 bài thơ TÂY TIẾN
và ĐỒNG CHÍ:
Theo thiển ý của Nguyễn
Khôi thì 2 bài này đều viết về NGƯỜI LÍNH, đều do 2 Nhà thơ Lính, cùng thời
viết ra nhằm ca ngợi, tôn vinh Anh Bộ đội Cụ Hồ (thời kháng chiến 9 năm chồng
thực dân Pháp xâm lược); Hai bài thơ này đều thuộc "diện" THƠ HAY
(trong số 100 bài thơ chọn lọc thế kỷ 20 - Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2007), được
nhiều người yêu thích và đều được đưa vào Sách Giáo khoa giảng dạy trong Nhà
trường Chủ Nghĩa Xã Hội Việt Nam. Tuy nhiên, cách bình phẩm, cách thưởng thức 2
bài thơ này, với riêng Nguyễn Khôi cảm nhận thì:
- Bài TÂY TIẾN là 1
trong 5 bài thơ vào loại HAY NHẤT trong số 100 bài chọn lọc kể trên. Với bút
pháp Hàn Lâm, đó là con chim đại bàng vẫy lên đôi cánh mênh mông trên trời thơ
xứ Việt... Nó đẹp hoành tráng, kỳ bí - đọc phải suy ngẫm, rất nhiều ý tại ngôn
ngoại... chắc là kể cả mai sau, TÂY TIẾN còn tốn nhiều giấy mực người đời bình
phẩm về nó?
- Bài ĐỒNG CHÍ, với bút
pháp bình dân, đó là thứ ca dao được chắt lọc cô đọng: lời lẽ ngắn gọn dễ hiểu,
vừa tầm với những người Nông dân (bần cố) mặc áo Lính (thời 1947), đó là Con
chim Sáo, chim Bồ câu gần gũi thân thưong với quảng đại quần chúng thời buổi
đầu Cách mạng.
VIII- Đôi lời kết :
Tây Tiến ra đời đến nay đã qua
62 năm, bài thơ cũng như thân phận tác giả đã nếm đủ nỗi thăng trầm thế sự, có
một thời khá dài người ta đã cố ý "trẩm" (chìm) nó đi tưởng nó đã đi
vào quên lẵng? - Nhưng không, thầy giáo của Nguyễn Khôi từng bảo: chỉ sợ Thơ
anh không hay thôi, còn hay đích thực thì sẽ bất hủ. Tây Tiến với Quang Dũng
quả là vậy. Đây là TUYỆT CHIÊU của Quang Dũng - một áng thơ đạt tiêu chí
"kim cổ kỳ thi" của đân tộc Việt Nam ta, có bị "đánh" cũng
không chết! Nó có thể sánh với HOÀNG HẠC LÂU của Thôi Hiệu, TƯƠNG TIẾN TỬU của
Lý Bạch - những thiên thi ca kỳ bí, thiên hạ sẽ còn tốn nhiêu bút mục "bàn"
về nó. Ở Việt Nam ta đương đại có 3 Thi sỹ Họ Bùi:
- Hoàng Cầm (Bùi Tằng
Việt) với Lá Diêu Bông ...
- Quang Dũng (Bùi Đình
Diệm) với Tây Tiến, Đôi Mắt người Sơn Tây...
- Bùi Giáng với Mắt Buồn
...
Đó là 3 trái Núi thơ
(Thi Sơn) sừng sững trên bầu trời thơ Việt đứng sau Nguyễn Trái, Nguyễn Du ....
Để cho ta tự hào về sự tài hoa trong sáng của tiếng Việt đầy ắp hồn quê... Để
thêm yêu tiếng Việt như "ngàn mày tràng giang" say muôn đời.
Mời thư giãn với nhạc phẩm GẶP NHAU TRONG RỪNG MƠ
của Bảo Chung, qua tiếng hát Tân Nhàn và Trọng Tấn:
*.
Góc
Thành nam Hà Nội ngày 7-10-2010
NGUYỄN
KHÔI
Địa chỉ: P12A05 nhà 17T, Hoàng Đạo Thúy, Hà Nội.
Email: khoidinhbang@gmail.com
Điện thoại: 097.955.62.05
............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email
tác giả gửi ngày 20.01.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm
của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét