NGÀY MAI TÔI LÊN PÀ CA - Truyện ký Doãn Hồng Giang (Tuyên Quang)

Leave a Comment

NGÀY MAI TÔI LÊN PÀ CA

(Tác giả Doãn Hồng Giang)

Thoáng cái, đã mười lăm năm. Tôi và Giàng A Lù chơi thân với nhau.

Hồi còn làm công nhân lâm nghiệp trên Khuổi Mu chả tuần nào tôi không có mặt ở nhà A Lù. Khi thì anh bẫy được con gà rừng, lấy được tổ khoái quan, thứ mật ong rừng đặc quánh, vàng óng, thơm điếc mũi, khi có đám bắp non vàng bẹ, được nướng, anh nhắn tôi lên. Hay chỉ đơn giản vào rừng kiếm được đám mộc nhĩ, nấm hương, anh cũng nhớ đến, bảo tôi mang về dành ăn tết. “Cái này quý lắm ớ! Dưới mày cái gì cũng có, nhưng cái này chắc là không... hầy dà không cần nghĩ nhiều đâu mà!”.

Chả phải tự nhiên chúng tôi quen biết nhau. Cơ duyên cứ như trời định vậy.

Cái buổi tối đầu tiên tôi biết A Lù là một đêm vắng trăng, nhưng sao dày chi chít trên trời.

Đêm miền cao, sao sáng rất đặc biệt, trời như gần mặt đất hơn, ánh sáng mờ ảo như sáng trăng suông.

Tôi  phải về nhà gấp cho kịp sáng mai nhà có việc.

Hồi đấy chưa có xe máy nhiều như bây giờ và nếu có đường từ đội lâm nghiệp của tôi về đến nhà, xe máy cũng không đi được.

Qua một mùa mưa, con đường đất gọi là đường “dân sinh” bị mưa lũ xẻ ngang, xẻ dọc thành trăm đoạn. Chạy xe máy chỉ có nước ngồi khóc giữa đường, chờ ông Bụt hiện ra, hay may mắn có người đi qua đẩy hộ mỗi lần xe tụt xuống các khe rãnh ấy... Với chàng công nhân lâm trường như tôi, xe máy lúc bấy giờ gần như thứ gì xa xỉ, vốn biết “có nó cũng như không”, thật tình tôi chả nghĩ đến bao giờ.

Tôi mang cái xe đạp địa hình, không chắn bùn, tồng ngồng như xe cởi truồng để về trong đêm vắng.

Chỗ nào đi được thì đi, chỗ khó thì dắt bộ. Qua suối thì xe vác lên vai... Cứ nghĩ vất vả một tí, mãi rồi cũng về đến nhà. Chiếc đèn ba pin bỗng vụt tắt. Có nhẽ cái an pun của nó lâu ngày đã đến lúc phải đứt. Tôi dừng lại băn khoăn chưa biết tính thế nào. Không về thì không được. Đi tiếp chỉ có thể đi bộ chứ không thể chạy xe đạp. Trời không đến nỗi tối, nhưng ánh sáng của những vì sao cũng chỉ mờ mờ đủ nhận ra con đường trước mặt, không thể nhận rõ đâu là đường bằng, đâu là khe sâu?

Tôi ngần ngừ một lúc rồi vẫn quyết định đi, dù đã trù định trước cái xe khốn khổ của tôi vẫn rơi vào một khe mới lở, cắt ngang mặt đường. Cả người tôi tê dại không biết đau ở những chỗ nào?

Tôi cố gắng gượng đứng dậy nhưng không thể, đành ngồi bệt xuống cỏ bên vệ đường, sau khi khó nhọc rút được bên chân bị cái xe đạp đè lên.

Tôi thử co bên chân ấy, nhưng nó ì ra như không phải chân của mình. Thật sự hoang mang, tôi ngó xung quanh bốn bề lặng ngắt như chỗ không người.

Đêm tối không làm tôi sợ hãi vì đã có nhiều năm sống biệt lập trong rừng xa khu dân cư. Từng quen với bóng đêm thăm thẳm, chỉ có một mình. Nhưng tôi sợ đôi chân của mình đã không còn như trước. Tôi sẽ làm ăn sinh sống sao đây nếu nó không được vẹn toàn? Tôi sẽ trở nên tật nguyền từ giây phút này ư? Ý nghĩ ấy làm tôi toát mồ hôi dù trời đang rất lạnh.

Không cẩn thận tết này phải ngồi một chỗ, khỏi đi chơi đâu! Sẽ kết thúc mãi mãi những ngày rong ruổi với đôi chân vững chãi từng qua vạn dặm của mình, kể cả những ngày máu lửa thời chiến tranh giữ gìn cõi bờ Tổ quốc!

Đầu óc đang bấn loạn lên như thế, bất chợt tôi nhận ra ánh đèn pin loang loáng phía chiều ngược lại.

Ai đi đâu vào giờ này, điều ấy cũng không quan trọng, miễn là có gặp người. Tôi vội kêu lên. Không phải đợi lâu từ phía ánh sánh có bóng người chạy lại. Đó là hai người đàn ông mặc tà pủ, đầu đội mũ vải mềm có lưỡi trai. Chắn chắn là người Mông, những người thường ăn mặc như thế mỗi khi qua đội của chúng tôi. Họ trao đổi gì đó tôi không nghe rõ lắm. Người cao gầy kéo cái xe của tôi vác lên vai, trong lúc người đậm sức hơn ghé vai vào sát tôi bảo bám thật chặt. Cả hai thoăn thoắt rẽ vào một lối nhỏ cách đường lâm sinh một quãng. Tôi nhận ra trước mắt có vài ba ngôi nhà nhỏ bé, lợp cỏ gianh kề bên bờ suối cạn. Cánh cửa sơ sài đan bằng nan nứa được mở ra. Người đàn ông cõng tôi đặt tôi nằm lên sàn nứa, có mấy cái chăn mỏng và cũ. Bếp lửa được nhóm lên. Tôi nhận ra anh, khuôn mặt bầu bầu hình bánh dày và đôi mắt sáng. Đôi lông mày rậm, cặp mắt to, chỉ thoáng nhìn thế đã biết ngay đây là người đàn ông trung thực, đáng tin. Chính là Vàng A Lù, bạn của tôi, trong câu chuyện này. Trong khi ấy, người kia, chàng cao gầy cầm đèn pin chạy ra sau nhà, một lúc sau cầm vào nắm lá trông rất lạ.  Nắm lá có màu huyết dụ, lấp loáng phản chiếu ánh lửa, tôi chưa từng thấy bao giờ. Sau này mới biết đấy là cây lá thuốc chữa đòn đau, chữa vết thương. Người Mông trong quá trình du cư học được nó từ lũ khỉ lấy ở cây rừng khi chúng đắp vết thương cho đồng loại. Nhà A Lù đem về trồng một đám kín đáo ở sau nhà...

A Lù bảo người kia nướng lên trên bếp lửa.

- Chịu khó một tí è! Cái chân của cán bộ bị xước nhẹ bên ngoài, nhưng có khi dập cơ bên trong... Chịu khó nằm im một lúc, tôi bó lá thuốc, mai lại đi bình thường mà!

Tôi cắn răng để A Lù và người bạn của anh rửa nước muối, rồi xé mảnh vải cũ bọc thuốc cho bên chân đau của mình. Tôi nói tôi không phải cán bộ, chỉ là công nhân lâm trường. A Lù cười vẻ bẽn lẽn: “Thì cũng là cán bộ mà. Ai làm cho nhà nước người Mông đều gọi bằng cán bộ mà!”. Cái lý ấy quả thật tôi khó cãi. Mà cãi làm gì trong hoàn cảnh này chứ?

Bấy giờ tôi mới kịp hỏi hai người đi đâu về trong đêm? A Lù bảo:

- Định đi lên hang đá gần đấy lấy ong rừng. Giống này ban ngày bắt khó vì nó dữ, không như khoái nhà. Với lại gần tết rồi bận nhiều việc, ban ngày còn bận lấy tre về làm giấy chuẩn bị cho cúng Xừ cang (thần nhà). Rồi còn phải dọn chỗ rộng rộng một tí cho bọn trẻ  chơi tầu tù lu (chơi cù)...

Mớ thuốc lá của người Mông thật là hiệu nghiệm. Đến gần sáng tôi đã có thể nhúc nhắc men sàn nằm đi được vài bước. Tôi nảy ra ý định cố đi về nhà. Trưa mai là ngày giỗ mẹ tôi, là con trưởng trong gia đình tôi không thể vắng mặt.

A Lù chần chừ một lúc rồi bảo:

- Cán bộ có việc phải đi, tôi cho mượn con ngựa mốc của tôi. Con này hiền, đừng làm nó hoảng sợ. Nó chạy có khi còn hơn đi xe đạp. Nhưng nhớ trả cho tôi trước ngày cúng Xừ cang. Qua ngày đấy, muốn trả hay muốn mượn cũng không được đâu á!...

Tôi gửi lại cái xe đạp, A Lù giúp tôi lên ngựa...

Từ đấy chúng tôi quen nhau như chỗ anh em trong nhà. Việc lớn việc nhỏ gì của hai bên đều có mặt nhau.

Người Mông chỉ ăn Tết Nguyên đán, cái tết duy nhất trong năm, không như người Tày, người Kinh còn có những tết nhỏ: Mồng ba tháng ba, mồng năm tháng năm hay rằm tháng bảy. Dù vạy, lần nào tôi mời, bận đến mấy A Lù cũng đều đi. Và anh chả đi không bao giờ. Không có phong bao như người ta cũng có cái lồng gà, can rượu chuối mang theo.

Năm nào tết tôi cũng lên Pà Ca, vừa để xem tết của người Mông, vừa là đến nơi mình có ân nhân, từng cứu giúp mình qua cơn hoạn nạn.

Đột nhiên nghe tin A Lù cùng mấy hộ nữa đã vào Đắc Nông. Nghe người ta nói đất  trong ấy rộng rãi, dễ làm ăn.

Tôi lên Pà Ca thấy có đúng thế thật. Ngôi nhà gỗ mới cất của A Lù buộc dây ngoài cánh cửa, đám sân hẹp đã có chỗ cỏ mọc. Nhà mới làm rồi, A lù còn đi đâu chứ? Tôi buồn, hẫng hụt như mình vừa mất đi một cái gì đó rất quan trọng đối với mình...

Nhà nước đóng cửa rừng, đội chúng tôi chuyển về vườn ươm trung tâm ngoại vi thành phố. Công việc của tôi chuyển sang chiết ghép, nhân giống cây lâm nghiệp. Tuy cuộc sống có dễ chịu hơn về sinh hoạt không phải kham khổ như trước, nhưng bận luôn chân luôn tay. Nghề làm cây giống không như các nghề khác, không thể cứ dập khuôn máy móc “ngày làm tám tiếng”. Có khi đang bữa ăn có xe đến lấy cây phải bỏ đũa đứng dậy.

Có lúc nào rảnh tranh thủ việc gia đình.

Thực tình mà nói, phần nhiều chúng ta mắc chứng hay quên những gì xưa cũ đã qua, chỉ hay chú trọng những gì trước mắt. Tôi cũng không ngoại lệ.

Nhưng với tôi những ngày ở Khuổi Mu, gần gụi với anh em Vàng A Lù không thể nào quên. Chỉ trách ông trời hay éo le.

Người ta mến phục, người tử tế, nhiều khi ta chẳng được lâu gần, ông ấy thường bắt phải có cuộc chia ly nho nhỏ.

Cũng chừng ấy năm, con đường lên Pà Ca, một bản người Mông của A Lù dưới chân Đỉnh Mười đã có quá nhiều thay đổi. Con đường đất nhỏ hẹp năm nào chỉ có thể đi bằng chân hay cưỡi ngựa đã nhường chỗ cho con đường trải nhựa rộng rãi, xe ô tô hai chiều chạy chạy thong dong. Thoạt đầu là đường tỉnh lộ, rồi Quốc lộ 2C... Nhà cửa hai bên đường mới xây mọc lên san sát. Dấu hiệu phố phường “như nấm như măng” không còn xa lạ.

Từ nhà tôi lên tới nhà Vàng A Lù, bây giờ nếu chạy xe máy chỉ hơn tiếng đồng hồ. Những đỉnh dốc cao chon von đã được hạ dốc, nhiều con suối giờ đã có cầu cứng. Kể cả mùa lũ nếu muốn lên Pà Ca cũng chẳng phải lo lắng nhiều.

Ấy vậy mà lâu nay, biết tin A Lù đã về, vì bận công việc tôi chưa lên được, A Lù cứ trách mãi. Hắn bảo:

- Giờ chắc mải buôn bán đường xuôi, mày chả thích lên với bọn tao nữa rồi. Tao chỉ cần cái tình, chứ đâu cần mày phải giúp, phải cho cái gì?

A Lù chỉ nói thế chứ không kể lể công ơn, như nhiều người thường hay nghĩ đến trong trường hợp này.

Biết mình có lỗi, tôi chỉ biết lặng im vì mình sai quá rồi. Cười trừ lại càng không dám. Người Mông bản tính hiền lành, chất phác nhưng đặc biệt nhạy cảm. Ai giả dối đưa đẩy là biết ngay và cực ghét kiểu giả lả mà người ta nói: “Nói vậy không phải vậy”.

*

Tráng Thị Sai là em gái đằng ngoại của A Lù. Một cô gái Mông xinh xắn dịu dàng. Người mà một thời tôi đã rắp tâm theo đuổi. A Lù cũng đồng tình và có ý muốn giúp tôi. Ngặt nỗi, bố cô ấy bảo hai tuổi không hợp nhau.

Tôi tuổi Ngọ, cô ấy tuổi Dậu, hai tuổi này lấy nhau không hợp, sẽ khổ về sau... Con gái người Mông thương cha, quý mẹ, hiếm khi cãi lời. Sai chỉ còn biết gạt nước mắt, chúng tôi đành chia tay, nhận “anh em kết nghĩa”.

Mỗi dịp cô về thành phố đều ghé nhà tôi chơi. Tôi cũng coi cô như em út trong nhà.

Hôm ở chợ Tam Cờ cô ấy gặp tôi, trách sao mua xe con lâu rồi, có phương tiện sao không lên thăm nhà anh A Lù?

Tôi bảo cuối năm công việc rất bận, họp hành lu bu. Nhưng nhất định năm nay anh sẽ lên thăm A Lù và thăm cả nhà em nữa, có sợ chồng nó ghen không?

Sai bảo: “Người Mông không có tính ghen bậy đâu. Anh nào có vợ đẹp được nhiều con trai thích còn cảm thấy hãnh diện nữa mà”. “Là anh nói đùa vậy thôi. Bao nhiêu năm sống trên Đỉnh Mười, tập quán người Mông anh cũng biết chút mà”.

Em bảo đường lên Pà Ca bây giờ  đường đi êm như ru. Từ ngoài quốc lộ vào Pà Ca đường đã là đường bê tông rộng hơn ba mét. Mới có sau “Chương trình đường nông thôn mới, Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Anh có lên cũng không sợ xước sơn, cây quệt hỏng xe đâu. Mà có lên thì lên trước tết vài ngày xem hội bánh dày, vui lắm!

Cuộc gặp Sai ngày cuối năm như thêm phần khích lệ tôi. Dù thế nào tết năm nay tôi sẽ lên Pà Ca ở chơi vài ngày.

Tôi sẽ chạy xe máy chứ không dùng đến “xế hộp” lên Pà Ca.

Người ta bảo “Đáo giang tùy khúc, đáo gia tùy tục”. Lên với những bạn bè quanh năm còn vất vả, thiếu thốn chưa phải đã hết, mình nghênh ngang vác cả cái “xế hộp” lên đấy làm gì?

Đành rằng bây giờ xe con, xe đẹp có đầy, nhiều như lợn con bán ngoài chợ, chả còn được người ta ao ước, chú ý mấy như ngày xưa.

Chạy xe máy như đi về nhà, lại cơ động muốn ghé chỗ nào cũng được. Có ở chơi vài ngày không phải lo chỗ để xe, quay ra quay vào đều tiện.

Cả đêm trằn trọc không ngủ, chỉ mong cho trời sáng. Ngày mai là tết Xừ cang ở nhà A Lù rồi, nếu tôi lên, anh sẽ mừng lắm. Cả nhà sẽ xúm xít quanh tôi, mời ăn, mời uống thứ này thứ khác... Ăn uống bây giờ chả ai mong mỏi, quan trọng như ngày đói khổ, nhưng nó là cái tình chân thật, theo kiểu “Có thực mới vực được đạo” giữa con người với nhau. Chỉ hình dung thế thôi tôi đã thấy trong dạ phập phồng, vui khó tả.

Thấy tôi trở mình hết bên này sang bên khác. Vợ tôi bảo:

- Anh lại tương tư cô nào phải không?

- Làm gì có. Anh đang hình dung ngày mai lên nhà A Lù sẽ thế nào...

- Các ông cứ như phải lòng mặt nhau không bằng. Nhưng nhớ khi về phải kiếm con “sọc dưa” để nhà mình ăn tết đấy. Không có cứ ở luôn trên ấy...

Tôi biết vợ tôi nói thế nhưng rất mực thương chồng. Cả chuyện tôi với Sai, thế nào đó cô cũng biết, nhưng chẳng hề ghen.

Cô ấy nói cứ như hiền triết: “Đời người ta không dài. Tử tế còn chả ăn ai. Cứ liệu liệu mà sống”.

Tôi muốn thêm: “Sống sao thì sống, phải có trước sau, đừng quên chuyện cũ, người có ơn có nghĩa đối với mình”.

Nhưng đêm đã khuya, tranh luận với vợ lúc này rất chi là không phải lúc, không phải kiểu.

Tôi cần ngủ để lấy sức, ngày mai lên Pà Ca...

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Chuyện làng văn0

- Bạn đọc cảm nhận về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l

 

Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:

*

DOÃN HỒNG GIANG

Địa chỉ: Thôn Vông Vàng II, xã Xuân Vân,

huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

 

 

 

 

 

…………………………………………………………………………

- Cập nhật từ email: khoidinhbang@gmail.com ngày 21.02.2017.

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến. 

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét