LÊ
LONG ĐỈNH:
VỊ
VUA "HOANG DÂM"
HAY
NỖI OAN LỊCH SỬ?
Trong hơn nghìn năm, tên tuổi
Lê Long Đĩnh- Lê Ngoạ Triều gắn liền với hình ảnh “vua hoang dâm ngọa triều”.
Nhưng khi soi lại cổ sử, có lẽ chúng ta đã quá bất công với vị vua trẻ ấy,
người từng thân chinh năm lần dẹp loạn và mộ đạo đến mức xin kinh sách về nước.
Vị
vua trẻ trên lưng ngựa
Từ thuở còn cắp sách đến
trường, nhiều thế hệ học sinh Việt Nam đã nghe về “vua Lê Ngọa Triều”, ông vua
hoang dâm vô độ, tàn ác, đến nỗi phải nằm mà thiết triều. Cái tên ấy gần như
trở thành biểu tượng của sự suy đồi, là tấm gương để răn dạy hậu thế. Nhưng nếu
một lần mở lại những trang cổ sử, soi xét kỹ bối cảnh lịch sử, ta sẽ thấy một
sự thật khác: Lê Long Đĩnh không hẳn là vị hôn quân như người ta vẫn nghĩ, mà
có thể là một vị vua trẻ tài năng, anh dũng, song bị lịch sử đối xử bất công.
Lê Long Đĩnh (986–1009) là con
út của Lê Đại Hành, vị vua mở đầu triều Tiền Lê sau chiến thắng Tống, Chiêm
lừng lẫy. Ông lên ngôi năm 1005 khi mới 19 tuổi, trong bối cảnh triều đình rối
ren, các anh em trong hoàng tộc tranh đoạt ngôi báu. Thế nhưng, Đại Việt sử ký
toàn thư chép rõ: trong bốn năm trị vì ngắn ngủi, Lê Long Đĩnh đã thân chinh ra
trận năm lần, và lần nào cũng thắng trận.
Năm 1005, ông dẹp loạn trong
tông thất; Năm 1006, đánh tan giặc cướp ở Ái Châu; Năm 1008, hai lần bình định
giặc Man ở Đô Lương, Vị Long, rồi Hoan, Thiên Liêu; Và năm 1009, tiếp tục dẹp
loạn ở Hoan Đường, Thạch Hà.
Một người chỉ trong tuổi đôi
mươi mà xông pha trận mạc đến năm lần, giữ vững bờ cõi, bảo vệ dân an, đó không
thể là hình ảnh của kẻ “suy nhược, chỉ biết hưởng lạc” như hậu thế thường nghĩ.
Sử cũ còn chép: “Vua mặc giáp
ra trận, tả xung hữu đột, sĩ tốt theo sau không ai đuổi kịp.”
Chỉ cần một dòng ấy thôi, cũng
đủ thấy khí phách của một minh quân trẻ tuổi, một vị tướng thân chinh trong
buổi đất nước còn non trẻ.
"Ngọa
triều”: huyền thoại hay thủ pháp chính trị?
Vậy “Ngọa triều” từ đâu mà có?
Các bộ sử chính thống như Đại
Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục đều ghi lại biệt
hiệu ấy, nhưng không chỉ rõ nguồn gốc. Theo nhiều học giả, biệt danh “vua nằm
mà thiết triều” không phải do đương thời ghi chép, mà là sản phẩm được nhà Lý
và các sử quan sau này thêm vào. Lý do thật dễ hiểu: Lý Công Uẩn, người sáng
lập triều Lý, vốn xuất thân quan lại triều Tiền Lê. Việc ông lên ngôi năm 1009
không hoàn toàn theo dòng chính thống, nên cần một lý cớ chính trị để “chính
danh” cho việc thay triều đổi đại.
Sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại
Việt sử ký tiền biên đã thẳng thắn đặt vấn đề:
“Có lẽ vì muốn biện minh cho
việc tiếm ngôi mà người đời sau đã bịa đặt chuyện Lê Long Đĩnh ngọa triều.”
Ông còn nêu nghi ngờ rằng Lý
Công Uẩn đã đầu độc vua Lê, một giả thuyết không dễ kiểm chứng, nhưng phản ánh
thái độ hoài nghi đối với tính trung thực của sử quan đương triều.
Ở Trung Hoa và các quốc gia
phương Đông, việc “bôi đen” vị vua tiền triều để ca tụng triều mới là điều
không hiếm. Sau khi Chu Nguyên Chương lập ra nhà Minh, các vua Nguyên cũng bị
chép là “hôn quân tàn bạo”. Nhà Thanh khi viết về nhà Minh cũng không quên tô
đậm tội lỗi của các vị vua cuối cùng. Cách viết “chính trị hóa” lịch sử ấy,
tiếc thay, đã đi vào truyền thống biên niên Việt Nam, khiến nhiều nhân vật trở
thành nạn nhân của ngòi bút.
Vua
tàn ác hay nhà vua mộ đạo?
Giai thoại “vua róc mía trên
đầu nhà sư Quách Mão” được kể lại nhiều đời, đến mức trở thành chi tiết minh
họa cho tính tàn ác của Lê Long Đĩnh. Nhưng đọc kỹ Đại Việt sử ký toàn thư, ta
thấy ngay năm 1007, chính vị vua này đã sai sứ sang nhà Tống xin Cửu Kinh (Kinh
Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Hiếu Kinh
và Chu Lễ) cùng Kinh Địa Tạng, một bộ kinh Phật đồ sộ được biên soạn trong suốt
mười thế kỷ.
Một người mộ đạo và trọng học
đến mức cầu thỉnh cả tinh hoa của Nho giáo và Phật giáo về cho nước mình, liệu
có thể là kẻ tàn bạo, ngạo mạn, coi thường tôn giáo?
Thậm chí, một số học giả còn
cho rằng việc xin Cửu Kinh chính là biểu hiện của tầm nhìn văn hóa: Lê Long
Đĩnh muốn xây dựng quốc gia Đại Cồ Việt theo mô hình văn hiến Đông Á, trong đó
Nho, Phật, Đạo cùng song hành, tạo nền tảng tinh thần cho dân tộc.
Câu chuyện “róc mía trên đầu
nhà sư” vì vậy, xét từ góc độ logic và bối cảnh, là vô lý và phi nhân học. Nó
giống như một truyện ngụ ngôn chính trị, được thêm thắt nhằm tô đậm sự tàn bạo
của vị vua triều Lê, để làm nền cho sự “chính danh” của triều đại kế tiếp.
Hậu
thế bất công với người trẻ tài hoa
Chỉ bốn năm trên ngai vàng, 24
năm trong đời người, Lê Long Đĩnh không có nhiều cơ hội để ghi dấu công nghiệp,
nhưng dấu ấn của ông vẫn rõ nét: giữ yên biên giới, ổn định triều chính, thúc
đẩy giao thương và học vấn. Song đáng buồn thay, suốt một nghìn năm sau, hậu
thế chỉ nhớ đến ông qua hai chữ “hoang dâm”.
Ngày nay, khắp đất nước không
có con đường, ngôi trường hay công trình nào mang tên ông. Trong khi đó, nhiều
vị vua khác, dù có triều đại ngắn ngủi, hoặc gây tranh cãi, vẫn được vinh danh.
Sự im lặng ấy là một nỗi oan kéo dài, không chỉ với một con người, mà còn với
chính cách ta đối xử với lịch sử.
Những
người cùng chịu “oan lịch sử”
Lê Long Đĩnh không phải người
duy nhất bị lịch sử phán xét bất công. Trước và sau ông, nhiều nhân vật khác
cũng từng bị “đánh giá sai” vì những lý do chính trị.
- Hồ Quý Ly (1336–1407): suốt
hàng trăm năm bị coi là “gian thần tiếm ngôi”, “kẻ gây ra họa Minh thuộc”.
Nhưng đến nay, nhiều sử gia đã nhìn lại: chính Hồ Quý Ly là người đặt nền móng
cho cải cách hành chính, tiền tệ, giáo dục và mưu cầu một nước Việt độc lập,
văn minh. Nếu thất bại của ông là bi kịch chính trị, thì tầm nhìn của ông lại
là khởi đầu cho những cải cách sau này.
- Trần Ích Tắc (1254–1329):
từng bị kết tội “theo giặc Nguyên”, trở thành biểu tượng phản quốc. Nhưng nhìn
lại, hành động của ông phần nào xuất phát từ bi kịch nội tộc, khi triều Trần
khủng hoảng quyền kế vị. Dưới góc độ lịch sử, Trần Ích Tắc là một học giả, một
nhà giáo lớn, người từng mở trường dạy học, được vua Trần Nhân Tông xem là “đạo
huynh”. Việc ông sang Nguyên có thể là sai lầm, nhưng không thể xoá bỏ toàn bộ
công lao và học vấn của ông.
- Trịnh Tùng (1550–1623): người
có công khôi phục cơ nghiệp họ Lê, song vì xung đột với Lê Kính Tông mà bị sử
quan nhà Nguyễn chép là “chuyên quyền, tàn bạo”. Trong khi thực tế, ông là
người có công lớn trong việc ổn định Bắc Hà suốt gần nửa thế kỷ.
Những trường hợp ấy cho thấy:
lịch sử không chỉ ghi lại sự thật, mà còn phản chiếu quyền lực. Người nắm quyền
viết sử luôn có xu hướng định hình quá khứ theo lợi ích chính trị của mình. Khi
người ta “chính danh” cho triều đại mới, cái giá phải trả thường là sự bất công
với triều đại cũ.
Lịch
sử cần được đọc lại bằng con mắt nhân văn
Ngày nay, khi sử học Việt Nam
đã thoát khỏi cái bóng của các quan điểm chính thống, chúng ta có điều kiện nhìn
lại quá khứ bằng con mắt khoa học hơn, nhân văn hơn. Việc “minh oan” cho những
nhân vật như Lê Long Đĩnh, Hồ Quý Ly không phải là để đảo ngược lịch sử, mà là
để trả lại sự công bằng cho ký ức dân tộc.
Lịch sử, tự bản thân nó, vốn
không sai. Cái sai nằm ở cách ta đọc nó. Nếu chỉ đọc bằng định kiến của kẻ
thắng, ta sẽ bỏ quên nửa còn lại của sự thật.
Một dân tộc chỉ thật sự trưởng
thành khi dám đối diện với quá khứ bằng trí tuệ tỉnh táo, không ca tụng mù
quáng, cũng không kết tội hồ đồ.
Trả
lại tên cho người xứng đáng
Đã hơn một thiên niên kỷ trôi
qua kể từ ngày Lê Long Đĩnh băng hà. Những lời chép sử có thể đã khắc sâu trong
tâm trí nhiều thế hệ, nhưng thời gian cũng đủ dài để ta nhìn lại, gạn đục khơi
trong.
Nếu có một ngày, tại Hoa Lư hay
Thanh Hóa, nơi khởi phát triều Tiền Lê, có một con đường mang tên Lê Long Đĩnh,
thì đó không chỉ là một tấm biển chỉ đường, mà là một cử chỉ hòa giải với quá
khứ.
Bởi vì, lịch sử không chỉ là
chuyện đã qua, mà còn là tấm gương soi nhân cách hôm nay.
Và công bằng với người xưa,
cũng là cách để chúng ta công bằng với chính mình.
("Đã nhiều năm sưu tầm, tìm đọc, tôi - một người thuộc dòng họ Lê - viết
bài này như một nén nhang thắp cho tiền bối, góp phần minh oan cho ông"
- Lê Thọ Bình)
⸻----------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Ngô Sĩ Liên (1479): Đại Việt sử ký
toàn thư, Bản kỷ quyển II, Viện Sử học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội,
1998.
2. Ngô Thì Sĩ (1775): Đại Việt sử ký
tiền biên, Bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội,
1997.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn (1856):
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Chính biên quyển I–II, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội, 2007.
4. Lê Văn Hưu: Trích dẫn gián tiếp qua
Đại Việt sử ký toàn thư, mục triều Tiền Lê.
5. Trần Quốc Vượng (1995): “Một số vấn
đề lịch sử triều Tiền Lê”, trong Nghiên cứu lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội.
6. Hà Văn Tấn (2003): Tư liệu và nhận
thức về lịch sử Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội.
7. Đào Duy Anh (1964): Lịch sử Việt Nam
từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Huy (2020): “Cần nhìn lại
hình tượng Lê Long Đĩnh trong sử học Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát
triển, số 4 (324), Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
MỜI ĐỌC 31 TẬP TRUYỆN MA, TRUYỆN LIÊU TRAI
ĐÃ ĐĂNG TRÊN BLOG TRANG ĐẶNG XUÂN XUYẾN:
4. Bí ẩn trong khách
sạn Thủy Tiênl
14. Một nhà đĩ Hồl
15. Căn nhà ma - Ma
không đầul
16. Báo mộngl
21. Con tim của quỷl
22. Ba nốt ruồi sonl
26. Đi kiện oan hồnl
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỌC TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP:
La
Thụy giới thiệu
Tác giả: Lê Thọ Bình - Nguồn: bangkhuangblog
Ảnh
minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.


0 comments:
Đăng nhận xét