NHỮNG TRẬN CHIẾN
CỦA ĐẠI TÁ WACLAW
*
(Tác giả Lý Thanh) |
Trong cả gia đình ở
Ba Lan, tôi là người cuối cùng đến thăm bác Waclaw, và sau khi đã ra
nước ngoài sinh sống hơn 10 năm cũng vẫn chính tôi thành
người báo tin bác qua đời cho con trai bác, anh Adam.
Hồi còn sống ở Ba
Lan, vợ chồng tôi hay đến thăm bác. Khi ấy bác đã về hưu, thời oanh
liệt 'nay còn đâu', như người ta nói về các quân nhân hưu trí. Không
chỉ vậy. Thời thế thay đổi, từ sau 1989, quá khứ của một
thế hệ các bác, những đảng viên cộng sản trong Quân đội Nhân dân Ba Lan (Wojskie
Polskie Ludowe), còn bị các đảng phái cánh hữu lôi ra phê phán
ngay tại diễn đàn Quốc hội, trên truyền hình quốc gia. Một hôm đang
ngồi ở nhà bác chúng tôi nghe tin cựu Đại tướng Wojeciech Jaruzelski
bị một đảng nhỏ của phe Công đoàn Đoàn kết cũ đòi xem ra tòa xử vì
tội “phản quốc”. Bác Waclaw trừng mắt chỉ vào TV mắng:
“Bọn mất dạy, nếu chúng động đến Jaruzelski thì tao sẽ xuống
đường đập cho chúng một trận.”
Vợ tôi, là cháu của
bác, vội can, “Thôi 'wujek' ơi, cứ để
yên, tin vào toà án. Không ai làm gì ông Jaruzelski đâu.”
'Wujek' là cậu hoặc
bác đều được vì tiếng Ba Lan không phân biệt ngôi thứ rõ ràng. Đúng
ra đại tá Waclaw không phải là bác ruột mà là bác rể, nhưng nay là
người thân nhất của chúng tôi ở Warszawa vì bác gái, chị ruột mẹ vợ
tôi, đã qua đời.
Bác trai sống một
mình trong căn biệt thự ba tầng chính quyền Ba Lan cung cấp cho ông theo
tiêu chuẩn sĩ quan cao cấp. Sau thay đổi chế độ, chẳng ai đòi bác trả
nhà, và lương hưu cùng các tiêu chuẩn vẫn được giữ nguyên. Căn nhà
nằm trên phố Arciszewskiego, khu Bemowo, ngay đằng sau Học viện Kỹ thuật
Quân sự Ba Lan tức WAT – Wojskowa Academia Techniczna. Cả khu phố thật
đẹp, là các dãy biệt thự nối đuôi nhau bên lề một cánh rừng, nhà
nào cũng có cây xanh, hàng rào có rặng nho, hoa dây leo, tạo cảm giác
kín cổng cao tường, đúng với không khí một khu vực của giới tướng
tá. Nhà bác còn có vườn trước, vườn sau rộng rãi, với táo, lê và
anh đào đã lâu năm. Những chiều mùa hè, sau bữa tối, bác hay dẫn
chúng tôi đi dạo. Bác chỉ cho đây là nhà của tư lệnh hải quân, kia là
nhà của quân khu trưởng duyên hải. Qua hai phố nữa, đến nhà một phó
thủ tướng, bác chỉ vào hàng rào có hàng hoa giấy hồng tím nói với
vợ tôi:
“Bác gái cháu ngày xưa thân với bà ấy lắm. Một phụ nữ đẹp,
sang trọng, trí thức, tiếng Nga rất giỏi.”
Vợ tôi hỏi lại, “Cháu tưởng Lala (tên bác gái) là
bạn với phu nhân của tướng Jaruzelski?”
Bác Waclaw cười hãnh
diện:
“Lala làm phiên dịch tiếng Pháp cho Bộ Tổng tham mưu nhiều năm
thì vợ tướng nào mà không quen. Còn bà Jaruzelska. Một phụ nữ quý
phái. Dòng họ quý tộc lâu đời đấy.”
Tất cả những người
bác kể đều đã thuộc về quá khứ nhưng bác không bao giờ dùng từ
“nguyên”, hay “cựu”, như thể họ vẫn còn đương chức.
Là người Việt Nam
sang Ba Lan học đại học vào đúng lúc chế độ chuyển sang dân chủ, các
sách giáo khoa cũng đổi hết theo trào lưu mới nhưng tôi không có vấn
đề gì với chuyện bác Waclaw là cựu quân nhân của khối xã hội chủ
nghĩa cũ. Đó là chuyện đã thành lịch sử, và với chúng tôi, điều
thiết thực hơn cả là biệt thự cùng vườn cây rộng của bác trở thành
điểm lý tưởng để rủ bạn bè đến chơi. Con phố toàn các ông bà già
Ba Lan về hưu thường rất yên tĩnh bỗng có những ngày cuối tuần ồn
ào đủ các loại người. Chúng tôi lôi tới đó các bạn Việt Nam,
Romania, Nga, Ba Lan, đốt than khói um lên, làm tiệc thịt nướng, gọi
là 'grillowanie' ngay dưới hàng táo quả cứ rụng đầy xuống cỏ.
Bác Waclaw chạy lăng xăng giúp đồ uống. Bà hàng xóm Alina, vợ góa
một ông đô đốc hải quân, nướng bánh mang sang góp vui. Mùa hè vùng
Trung Âu mặt trời ở lâu không chịu đi ngủ. Chúng tôi cũng thế, cứ ăn
uống chán rồi còn đàn hát, tiếng gì, ai hát được cứ hát tới tận
đêm. Xong rồi cả bọn dọn sạch mọi thứ, chào và cảm ơn bác, ra về.
Sau vài lần thì bác quen hết các bạn của tôi, chỉ không thể nào nói
được tên hai cậu Hùng và Hưng. Vắng các bạn tôi là bác hỏi thăm. Một
lần bác hỏi sao lâu không thấy 'Hung', cái thằng tóc húi cua, da đen
nhẻm đến nướng thịt nữa. Tôi phải nói dối:
“Dạ, cậu đó giờ về Việt Nam rồi bác ạ.”
Bác cau mặt: “Thế nó đi mà không làm tiệc chia tay
à? Nhà rộng thế này cứ đến có sao đâu.”
Tôi ầm ừ cho qua
chuyện vì không muốn nói là đã rủ đến nhà bác các thân phận phong
trần chẳng hiếm trong cuộc sống dân ta lưu lạc ở nước ngoài. Cậu Hưng
mà bác hỏi mới tuần trước vì “đứt giấy tờ” đã luồn rừng sang Đức,
hiện bị biên phòng gần Guben bắt, đang ngồi trong tại tạm giam, xin tỵ
nạn. Nó cũng nhỉ nhắn tin cho tôi thế chứ tôi biết mà chẳng giúp
được gì. Nhưng mà thôi, bác Waclaw ở địa vị cao sang, xa hẳn những
điều phức tạp ngoài đời, có nói về di dân lậu, về buôn bán chợ
trời, và đủ thứ bất thường xảy ra suốt ngày ngoài phố bác cũng
chẳng hiểu. Thế giới của bác đã dừng lại ở một thời xa vắng thì tôi
cứ đành để nó ở đấy.
Mùa đông, tôi và vợ
thường đến thăm bác rồi ở lại qua đêm trong căn nhà có bốn phòng ngủ
thênh thang. Ngoài vườn tuyết rơi, trời giá lạnh, trong căn nhà ấm áp,
chúng tôi uống trà, ăn bánh, nghe ông kể các chuyện ngày xưa. Trong câu
chuyện đó luôn có một người vắng mặt là anh Adam, định cư ở Canada.
Quê bác Waclaw ở vùng
tranh chấp hàng trăm năm với Đức và chỉ thuộc về Ba Lan sau giành
độc lập năm 1918. Khi bác còn là cậu bé học
lớp 6 thì Thế Chiến 2 nổ ra. Quân Hitler tấn công Ba Lan,
nhanh chóng đánh bại quân đội nước cộng hòa tư sản yếu ớt và đem
ngay cả vùng phía Tây nước này nhập vào Đế chế phát-xít, gọi là
'giành lại lãnh thổ'. Tư lệnh lực lượng SS khét tiếng, Heinrich
Himmler ra sắc lệnh phân loại cư dân, ưu tiên nhóm thiểu số
Đức (Volkdeutsch) và đặt người Ba Lan làm công dân hạng hai,
đối tượng bị đồng hóa cưỡng bức. Nếu như người Do Thái ở các vùng
Đức chiếm đóng phải mang dấu màu vàng, hình ngôi sao David sáu cánh
có đóng dấu J (Juden), bị tống vào các biệt khu để chờ đi
trại tập trung, thì quân Đức “tử tế” hơn với người Ba Lan. Họ
không phải dán chữ gì trước ngực áo nhưng trong giấy tờ có dấu P –
Polak (Ba Lan), để phân biệt với người Đức. Gia đình bác
Waclaw không muốn con phải học trường tiếng Đức của chế độ Hitler nên
để con trai học ở nhà theo chương trình của Ba Lan. Giáo dục bí mật
như vậy là hành động phản kháng, nếu bị lộ thì nhẹ là đi tù, còn
nặng là bị bắn tại chỗ. Thật may, Waclaw trải qua tuổi thiếu niên
khá yên lặng và không thiếu đói, nhờ cha mẹ có cửa hàng thực phẩm,
bán sữa, nông sản. Ngoài giờ làm phụ cha mẹ ở cửa hàng, anh tự
học, đọc sách, đọc Kinh Thánh trong hầm chứa rau. Nhưng khi Waclaw đến
tuổi 17 thì một vấn đề nan giải xảy ra. Tới giữa năm 1944,
khi quân Đức thua liên tiếp ở Mặt trận Phía Đông chống Liên Xô,
chính quyền Nazi tăng cường bắt lính. Chúng đổi luật, mở rộng tiêu
chuẩn 'người gốc Đức', từ nay bao gồm cả con em các gia đình từng
sống ở vùng thuộc Đức trước năm 1918. Waclaw có nguy cơ bị
bắt vào quân đội Đức nên cả nhà đã làm một bước mạo hiểm là cho
anh đi trốn, vượt tuyến sang phía Đông, nơi binh đoàn quân Ba Lan cộng
sản của Tướng Zygmunt Berling cùng quân Liên Xô đã tiến vào lãnh thổ
phía Đông Ba Lan. Ngày quân Đức bị đuổi hết đi, binh nhì Waclaw trở về
quê, oai phong trong quân phục của Quân đội Nhân dân Ba Lan. Vì vào quân
đội và Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan từ ngày lập quốc nên chiến
sĩ Waclaw nhanh chóng thăng tiến trong binh nghiệp ở thời đại mới.
Bác Waclaw có kể sau
cuộc chiến chống phát-xít Đức, bác tham gia chiến dịch Wisla truy
quét Quân đội Quốc gia Ukraina (UPA), lực lượng đánh Đức trong
Thế chiến nhưng không tuân phục Liên Xô và từ năm 1946 đã lập
chiến khu ở phía Tây Nam Ukraina, hoạt động cả trên lãnh thổ Ba Lan.
Tháng 3 năm 1947, họ chặn đường, đánh mìn giết chết tướng
Karol Swierczewski của quân đội Ba Lan. Chính quyền quyết định
đem 20 nghìn quân chủ lực vào cuộc. Với sự hỗ trợ của xe
tăng, trọng pháo Liên Xô, được cả quân Tiệp Khắc khóa biên giới giúp,
quân Ba Lan tiến vào vùng núi của ba tỉnh Krakow, Rzeszow và Lublin,
bình định các thung lũng, làng mạc. Bác Waclaw nói giao tranh có xảy
ra nhưng không nhiều và số thương vong hai bên thực ra là chẳng đáng
kể, so với các chiến dịch vĩ đại năm 1945. Bác kể lại kỷ
niệm lần đầu không có sữa bò mà phải uống sữa dê vài tuần liền khi
đi vào đóng sâu trong hẻm núi. Sau ba tháng hành quân, phía Ba Lan
xóa sổ hết các tiểu đoàn của Quân UPA, khiến họ chỉ còn chừng
trên 500 quân chạy trốn vào các vùng núi cao.
Nhưng điều bác Waclaw
không kể hoặc không muốn kể mà tôi đọc được về sau, là chiến dịch
Wisla chỉ là chương đầu cho một câu chuyện buồn đau về vấn đề sắc
tộc. Từ năm 1947 đến 1950, để đảm bảo an ninh vùng
biên giới Đông Nam, Ba Lan cưỡng bức hàng trăm nghìn dân thiểu số
Ukraina và sắc tộc Lemko phải bỏ nhà, lên định cư ở vùng biển Baltic.
Vài nghìn đàn ông bị nhốt vào trại Jaworzno, một cơ sở cũ thuộc
mạng lưới trại tập trung Auschwitz của phát-xít Đức trước kia. Sau
nhiều tháng ngồi tù không án, họ được thả, và là những người may
mắn hơn đồng hương của họ bên phía Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Ukraina
thuộc Liên Xô. Bên đó, hàng nghìn người bị đày đi Siberia.
Phải sang thập
niên 1990, hai nước Ba Lan và Ukraina thời dân chủ mới có các
động tác hàn gắn, hòa giải mà nổi tiếng nhất là cuộc gặp của hai
tổng thống Kwasniewski và Kuchma, tưởng niệm tất cả các nạn nhân
chiến tranh. Ở Ba Lan, người ta còn dựng trong khu trại Jaworzno một
bức tượng tưởng niệm những người thiệt mạng. Tôi không hỏi bác Waclaw
về những điều mới xảy ra sau này. Mà có hỏi chắc gì bác đã trả
lời.
Một lần xem bộ ảnh
cũ, tôi thấy hình bác mang hàm đại uý, dáng cao lớn, đội mũ sĩ quan
lệch sang một bên, đứng giữa hai cô gái xinh đẹp, cười rất tươi, Đằng
sau họ là căn nhà treo tấm băng-rôn chào mừng quân đội Ba Lan. Tôi hỏi
bác ảnh ở đâu. Bác đeo mục kỉnh lại xem cho kỹ rồi bảo, “À, ở Tiệp Khắc năm 1968”. Tôi
giật mình. Sang Ba Lan tôi học lại môn lịch sử nước này và biết về
cuộc tiến quân của Khối Warszawa vào Praha. Sự kiện lịch sử đẫm máu
này nay bị dư luận lên án.
Bác Waclaw tham gia
chiến dịch Danube, làm trợ lý tác chiến cho một tiểu đoàn trưởng
pháo binh cùng Quân đoàn II Ba Lan tiến vào chiếm vùng Tây Bắc Tiệp
Khắc, bọc lót các tuyến hành quân cho sư đoàn thiết giáp của Liên Xô
từ căn cứ Legnica, nằm sát biên giới Ba Lan – Đông Đức kéo thẳng vào
thủ đô Liên bang Tiệp Khắc, dập tắt Mùa Xuân Prague. Năm ấy, Moscow
quyết định giải tán ban lãnh đạo của Tổng bí thư Aleksander Dubcek vì
họ đòi dân chủ và tự do chính trị. Bác Waclaw kể quân đội Tiệp Khắc
đã bị đánh lừa nên không phòng bị gì hết. Là thành viên của Khối
Hiệp ước Warszawa họ chỉ đề phòng NATO, không ngờ bị các đồng chí
cùng phe đánh vào. Bác nhớ lại là quân Ba Lan từ vùng núi Silesia
phía Nam di chuyển đến biên giới là xe pháo dừng lại, quân xa tắt máy
trước đường biên hàng chục cây số. Ngày hôm trước, lính biên phòng Ba
Lan ở cửa khẩu Lubawka còn sang uống bia ở đồn biên phòng Kralovec của
Tiệp Khắc và để một nhóm đặc công Ba Lan cải trang, đã ở lại qua đêm
bên đất bạn. Bác Waclaw nhớ rất kỹ là rạng sáng hôm sau,
ngày 21 tháng Tám, trời nắng chói chang, vùng núi biên cương
nhiệt độ lên cao, bác cùng đơn vị tiến sang Tiệp Khắc. Không một ai
kháng cự. Bác Waclaw cùng các chiến sĩ quân Ba Lan vẫn vào các quán
bia và được hầu bàn bưng bia ra mời. Nhưng sau đó, họ muốn trả tiền
cũng không ai nhận. Dân tộc Czech vốn từng bị Hitler khuất phục trong
Thế Chiến II, có cách phản kháng tế nhị: “Các anh có thể lấy
bia nhưng chúng tôi không bán.” Sau một đêm, tại nơi đại uý Waclaw và
đồng đội đóng quân, trên tấm bạt phủ pháo xuất hiện các dòng chữ
tiếng Ba Lan: “Các bạn đang chiếm đóng một đất nước xã hội chủ
nghĩa.” Một hôm khác lại có những dòng chữ bằng vôi trắng trên tường
nhà: “Polacy! (Người Ba Lan ơi), tổ quốc của các anh nằm
bên kia biên giới”. Người Tiệp xoay biển phố để quân Ba Lan và Liên Xô
đi lạc đường. Họ cũng hát các bài ca cách mạng từ thời chống
phát-xít Đức. Tình hình ngày càng không đơn giản và đến
tháng 9 năm đó, quân Ba Lan rút về. Tôi hỏi từ đâu mà bác có
tấm hình chụp với hai cô gái Czech. Bác cười bảo đó là tư liệu tuyên
truyền quân Ba Lan mang sang chứ người địa phương không ai chào đón cả.
Hai cô gái đó hóa ra cũng là lính Ba Lan trong một đơn vị quân y. Tuy
thế, bác Waclaw cam đoan với tôi rằng không hề có chuyện dân Czech thù
oán đoàn quân của bác năm đó.
Bác giải
thích: “Người Czech không ưa
thích gì người Ba Lan đã từ nhiều thế kỷ rồi, chứ không phải vì
vụ 1968. Họ chỉ thích theo Đức. Cháu thấy đấy, suốt thời
Hitler chiếm Tiệp Khắc có người Czech nào chiến đấu đâu. Họ đầu hàng
để bảo vệ phố cổ Praha.” Ông già phẩy tay ra vẻ coi thường.
Tôi im bặt. Kinh nghiệm sống ở nước ngoài khiến tôi học được thói
quen không tỏ thái độ chê bai bất cứ dân tộc nào. Vả lại, những ý
nghĩ của bác đã như quân lệnh cứng trong trí nhớ rồi, tranh cãi khó
làm lay chuyển điều gì.
Sau chiến dịch Danube,
ông Waclaw lên thiếu tá và chuyển về làm giảng viên khoa Pháo binh –
Tên lửa ở Học viện Kỹ thuật Quân sự danh tiếng tại thủ đô. Adam đi học
ở Warszawa, và là con một nên được cha mẹ chiều chuộng. Anh hưởng hết
những gì tốt đẹp nhất nước Ba Lan của thập niên 1970 đem
lại. Đó là thời Ba Lan mở cửa, nhập hàng hóa Phương Tây, nhận đầu tư
từ Ý, Pháp, Anh. Năm 1974, bác Waclaw lên đại tá, lương cao
hơn, tiêu chuẩn cao hơn và tham gia nhiều dự án lớn của quân đội Ba Lan
trong Khối Warszawa. Các chuyến công tác thường đưa bác sang Moscow, Đông
Berlin, Praha, Budapest, Sofia và nhiều lần như vậy, Adam và mẹ được đi
cùng cha dự các buổi giao lưu với gia đình sĩ quan các nước anh em,
kết thúc bằng kỳ nghỉ ở Biển Đen hoặc hồ Balaton. Adam
học giỏi, thạo ngoại ngữ Anh, Pháp và sau khi tốt nghiệp
Đại học Ngoại thương (SGH) danh giá, đã vào làm việc cho một công
ty xuất nhập khẩu của nhà nước. Cuộc đời tưởng như chẳng còn gì
đẹp hơn cho đến khi xảy ra biến cố đảo lộn cuộc sống của cả ba
người.
Trận đánh lớn thứ
nhì của bác Waclaw không phải là cuộc hành quân ra ngoài biên giới mà
là Thiết quân luật năm 1981. Vợ tôi kể lại là hồi còn học
lớn 5, một ngày mùa đông âm độ, hai tuần trước Giáng Sinh
năm 1981, ba mẹ cô ấy mở cửa sổ ra ban-công nhìn thấy xe tăng
và quân lính đứng chặn góc phố. Bật truyền hình lên thì mọi chương
trình bình thường đã biến mất, chỉ có đại tướng Wojciech Jaruzelski
ban bố thiết quân luật, đưa đất nước 38 triệu dân vào chế độ
quân quản. Ở thủ đô, các sĩ quan cao cấp như đại tác Waclaw nghiễm
nhiên được phụ trách việc giám sát cả các hoạt động dân sự ở khu
phố. Ở khu nhà binh tưởng chẳng có gì phải lo nhưng thực tế lại
khác hẳn. Điều này tôi nghe bà mẹ vợ kể lại chứ bác Waclaw không hề
kể.
Hơn một năm rưỡi
thiết quân luật phá nát các tế bào trong xã hội Ba Lan. Với bác
Waclaw, sự phản kháng đến ngay từ bác gái trong nhà. Và không chỉ có
bà mà nhiều vợ tướng tá khác ngày càng không hài lòng với tình
trạng Thiết quân luật kéo dài, và họ thể hiện bằng nhiều động thái
'không chê vào đâu được'. Như hàng vạn người Ba Lan khác, đầu tiên là
họ tẩy chay bản tin thời sự buổi tối trên truyền hình đã biến thành
truyền hình quân đội, chỉ đăng các bản tin ca ngợi sự ổn định của
xã hội do Hội đồng Quốc phòng Cứu nước lãnh đạo. Cứ đến giờ là
các bà vợ bỏ ra ngoài cùng nhau đi dạo. Họ đi hết phố này sang phố
khác cho đến khi bản tin 30 phút chấm dứt mới về nhà. Mạnh
mẽ hơn, mỗi khi tin tức nghe lén qua BBC Luân Đôn, qua đài Châu Âu Tự do
từ Munich cho biết rằng có thêm một công nhân bị bắt chết, các bà
vợ, bà mẹ Ba Lan, gồm cả bác gái Lala, lại đốt một ngọn nến để
trên cửa sổ nhà.
Bác Waclaw bị đuổi ra
ngủ ở phòng riêng và cậu con trai thì ít về thăm cha mẹ hơn. Adam luôn
viện lý do là cha mẹ ở phố quân đội, ra vào bị quân cảnh xét hỏi
nên anh ở chỗ thuê nhà với bạn gái cho dễ thở. Thường thì anh vẫn
gọi điện đều hỏi thăm sức khoẻ hai người nhưng bỗng bẵng đi sau dịp
năm mới 1982.
Thiết quân luật lại
là thời gian bận rộn với đại tác Waclaw. Các hoạt động chung với
quân Liên Xô tăng lên. Nhờ sự trung thành với Đảng và nhà nước, kiên
định với đường lối chính trị chính thống, ông được chọn sang Liên Xô
học khóa chính trị cao cấp ở Học viện Bộ Tổng Tham mưu mang tên
nguyên soái Kliment Voroshilov. Đây là tiêu chuẩn quan trọng để ông lên
cấp tướng. Một ngày đầu mùa hè, ông ra nhà ga trung tâm, chia tay vợ
và lên tàu liên vận cùng một nhóm sĩ quan Ba Lan sang Moscow. Con tàu
chậm chậm qua sông Wisla đi về phía Đông nhưng đến ga tiếp theo thì
dừng lại, và dừng khá lâu. Một nhóm quân cảnh lên toa yêu cầu ông
Waclaw xuống tàu và quay trở về Bộ Quốc phòng Ba Lan “có việc gấp”.
Tại đó, ông đau đớn nghe tin Adam cùng người yêu đã trốn sang Áo, vào
trại tỵ nạn ở Vienna và tuyên bố từ bỏ Ba Lan, xin ở lại Phương Tây.
Anh không phải là người duy nhất bỏ đi vì kể từ khi có Thiết quân
luật, hàng vạn dân Ba Lan đã trốn sang Tây Berlin, Áo bằng đường bộ.
Có người còn bơi thuyền thể thao sang Thụy Điển thành công. Nhưng việc
Adam bỏ đi đã chấm dứt sự nghiệp của bác Waclaw. Vì lý do an ninh,
người ta còn khám nhà hai bác xem Adam có lấy tài liệu quân sự gì
củ̉a cha mang sang Phương Tây hay không. Lý lịch của bác Waclaw bị đen.
Cho đến ngày về hưu bác không còn được thăng cấp.
* *
*
Trong căn nhà rộng nay
chỉ còn mình người quân nhân góa, sinh hoạt hàng ngày rất đơn giản
nhưng hết sức kỷ luật. Bác Waclaw luôn dậy sớm, từ 5 giờ30, như
thể tiếng kèn doanh trại vẫn gọi. Bác đi kiểm tra khắp các phòng,
lên cả tầng trên cùng, để xem lỡ đâu mưa đêm hôm trước có làm dột
mái. Bác mở một số cửa số cho thoáng khí từng phòng, và sẽ đóng
lại vào buổi tối. Sau bác xuống bếp làm bữa sáng, luôn là một quả
trứng tráng với một khúc xúc-xích, cốc trà đen bỏ hai viên đường,
và một lát bánh mì. Mỗi tuần hai lần, bác ra thăm mộ vợ và trên
đường về thì xách một bình nước nguồn ở vòi công cộng, cung cấp
nước từ tầng địa chất Olgocen mà người Ba Lan tin là sạch và nhiều
khoáng chất tốt hơn nước máy bình thường. Bác dùng nước đó để nấu
ăn, pha cà phê và trà. Bác còn cặm cụi hái cả hoa và lá non cây cẩm
quỳ (lipa) xấy khô để đun thành một loại trà mà bác bảo
uống tốt lắm. Sau nhiều mùa lượm lặt, căn bếp củ̉a bác đầy ắp các
lọ đựng hoa, lá xấy khô, bên cạnh chao ôi là nhiều bình dưa chuột
muối. Nói thật là tôi đã thử trà lá cây của bác mà không thấy ngon,
chỉ độc một vị hăng hăng. Nhưng người già ở đâu chẳng thế, luôn lo xa
những điều vụn vặt và ham tích trữ những thứ “có lợi cho sức
khoẻ”. Những lần đến ở nhà bác tôi để ý thấy lưng bác đã còng,
bước lên cầu thang chân đã chậm, và sau bữa sáng luôn là giờ đo huyết
áp, và uống thuốc.
Một lần thay vì rán
trứng, vợ tôi đun gói mì tôm cho bác ăn sáng. Bác khen ngon nhưng ngay
lập tức hỏi:
“Chúng mày cho bác biết ăn thứ mì lạ này sau có uống thuốc
được ngay không?”
Bọn tôi ngớ người ra.
Bác băn khoăn về chuyện đó tới mức chúng tôi phải bịa ra là mì Việt
Nam rất tốt cho người cao huyết áp, bác đừng lo.
Bác gật gù bảo: “Học viên quân sự Việt Nam ngày xưa học
trong khoa Tên lửa của bác đứa nào cũng gầy nhom mà khoẻ lắm.”
Rồi bác chỉ tay vào
tôi, hỏi: “Quê cháu chắc không có
người cao huyết áp, béo phì?”.
Tôi bật cười, “Nhiều lắm bác ơi, kinh tế phát triển
thì lại ăn lắm, béo hú lên ấy.”
Giờ thì đến lượt
bác gật gù:
“Đúng đấy. Cái thời này chẳng ra gì, Ba Lan cũng vậy, có
nhiều tiền nhưng chỉ đua nhau ăn và phá. Nghị sĩ quốc hội gì mà
toàn bụng bự. Thanh thiếu niên thì vô kỷ luật.”
Rồi bác lại quay về
chuyện ngày xưa:
“Adam trước ngày nào cũng phải tập thể dục đúng giờ, phải
đạp xe, tập tạ. Không như bọn trẻ bây giờ, cháu bà Alina kia kìa.
Quần rách, thắt lưng đeo kiểu gì mà hở cả đít, đầu tóc xanh xanh đỏ
đỏ chẳng ra con ma gì.”
Bọn tôi cười vang
nhà. May mà hôm đó vợ tôi không mặc cái quần cắt ống, rách “sành
điệu” vài nhát ở đùi. Mẹ vợ tôi kể Adam ngày xưa sợ ông bố “quân
kỷ” nhất nhất bắt anh phải cắt tóc ngắn, phải mặc quần áo nghiêm
chỉnh. Muốn đi chơi, mặc quần jeans, áo chim cò của
thời 1970 cũng phải có bộ riêng để ở nhà bạn, lúc đi chơi
thì sang thay. Anh không có biểu hiện “nổi loạn” công khai chống lại
cha cho đến ngày không chịu được thì vượt biên luôn. Thế nhưng, đã bao
năm qua mà căn nhà vẫn đầy hình ảnh của Adam. Chỗ này có giấy khen
học sinh giỏi của Adam, chỗ kia huy chương thể thao vàng rực. Trên kệ
còn để nguyên các tập ảnh anh không mang đi. Tôi chú ý nhất tới một
tranh chân dung của anh do bạn hồi sinh viên vẽ, để trên bệ tủ đầy họa
báo về ô-tô, xe máy Ba Lan thời xã hội chủ nghĩa. Từ bức tranh nền
xanh là một thanh niên tóc vàng, khoác trên vai một tấm khăn có hình
đại bàng đỏ kiểu của tụi thanh niên thời đó đi nghe các băng nhạc
rock Ba Lan. Anh nghiêng đầu, nheo mắt nhìn ngược về phía sau, vẻ ngỗ
nghịch. Bác Waclaw còn giữ nguyên phòng củ̉a Adam như lúc anh còn ở
nhà, cho đến khi tôi đòi lấy chiếc xe đạp thể thao còn khác tốt của
anh ấy ra chạy. Bác đồng ý ngay và bảo bác vẫn lau xích, tra dầu
bảo quản nó, chỉ có lốp xe cần bơm lại. Nói thế chứ tôi không dám
phá chiếc xe mà bác nâng niu bao năm. Những ngày đẹp trời, tôi chỉ
lấy nó ra phố, chạy vài vòng quanh khu trường bắn cũ của Học viện
quân sự rồi phóng về, lau chùi cẩn thận để bác không phật ý.
Tôi biết về anh Adam
khá lâu trước khi gặp lần đầu, và cũng là lần cuối cùng. Đó là khi
anh từ Canada cùng một phái đoàn cao cấp thăm Ba Lan. Buổi trưa,
Adam gọi điện bảo tôi đến đón ở Marriott, khách sạn sang trọng nhất
thủ đô Ba Lan những năm ấy. Tôi phóng chiếc xe cũ kỹ tới tòa nhà
chót vót mà không biết đỗ xe chỗ nào. Cuối cùng, tôi phi luôn xe vào
cổng chính. Một anh bảo vệ mặc 'quân phục' có cầu vai như tướng Nga,
phù hiệu đỏ rực ra hỏi. Tôi nói tôi đến đón vị khách từ Canada ở
phòng như thế, tên như thế và cần đỗ xe. Anh ta chỉ cho tôi vào lối
tới bãi đỗ xe dưới hầm ngầm, tất nhiên là 'miễn phí'. Tôi lấy thang
máy lên phòng g̣ặp Adam trên tầng 18. Cửa mở, một người đàn
ông cao to, rất điển trai mời tôi vào. Đây là Adam, trong bộ áo véc len
gì rất mịn, rất sang, khác hẳn áo ngả màu của mấy ông giáo sư
trường tôi. Anh có mái tóc không còn vàng mà ngã màu nâu đậm, đã
cắt ngắn, không để dài như trong ảnh hồi trẻ. Đã bao nhiêu năm rồi
còn gì. Anh bắt tay tôi tự nhiên như thể đã quen từ lâu. Tôi chở anh
về nhà ông bác.
Hai người nói chuyện
với nhau rất gượng gạo như thể chẳng có gì để nói. Tôi xin phép về thì
Adam bảo cứ đợi rồi lát nữa đưa anh quay trở lại khách sạn. Anh nói
với tôi để cho bác Waclaw cùng nghe rằng anh chỉ có chiều nay rảnh,
vì lúc này, thủ tướng Canada Jean Chretien đang hội đàm với tổng
thống Ba Lan Lech Walesa. Anh thuộc phái đoàn doanh nhân không dự họp
nhưng đến tối sẽ về cùng đoàn dự tiệc ở Hoàng cung, do chính phủ Ba
Lan chiêu đãi.
Tôi hỏi anh chuyện
chính trị hai nước đã đọc ở đâu rằng năm trước ông Walesa thăm Canada
và nhận được sự ủng hộ từ chính phủ Canada để Ba Lan gia nhập NATO.
Adam xác nhận, “Đúng thế, và lần này Jean Chretien sang
thăm Ba Lan đáp lễ, và sẽ ra tuyên bố về hợp tác quân sự.”
Bác Waclaw nghe đến
đó thì bật ra một câu, “Việc gì
phải vào NATO, để làm tay sai cho Mỹ à? Canada có một nhúm dân nên
phải theo đuôi Mỹ, Ba Lan đã thôi Liên Xô thì phải độc lập. Độc lập
thật, không theo thằng nào.”
Không khí nóng lên,
anh Adam nói câu gì đó tiếng Ba Lan mà tôi không kịp nghe. Uống hết
cốc trà bác Waclaw pha cho, anh đứng lên luôn, cầm mũ, bảo tôi đưa anh
ra trung tâm “có chút việc”. Tôi ớ người ra, không dám nói gì. Họ gặp
nhau nhanh quá. Mỗi lần về Việt Nam thăm nhà tôi đều cố gắng ở lâu
hơn, mà nay chỉ mươi phút anh Adam đã bỏ đi, thật tiếc thay cho họ. Hay
là lỗi tại tôi đem chuyện chính trị ra hỏi? Thế nhưng tôi dù gì thì
cũng vẫn là người ngoài, và là người nước ngoài nữa. Có cảm giác
là hai người đàn ông Ba Lan, một già, một trung niên sắp cãi nhau vì
những bất đồng tồn đọng từ lâu, tôi xin phép ra xe trước.
Chở Adam vào lại khu
trung tâm qua khu phố nghèo Wola đầy đường ray tàu
điện cũ kỹ, gồ ghề, lục cục dưới bánh xe ô-tô, tôi nói chuyện với
anh và hiểu vì sao anh ra đi không trở lại. Anh muốn chạy trốn khỏi
người cha quân nhân khó tính, muốn tìm tự do, bỏ nước Ba Lan lúc ấy
chỉ một màu xám. Bác Waclaw có nhiều thành tích chiến trận, có mặt
ở tất cả những lần “động binh lớn” của quân đội Ba Lan, nhưng đã
không thể thắng được những suy tư của con trai, của một thế hệ khác
khi đất nước Ba Lan củ̉a bác chuyển mình. Càng nói chuyện tôi càng
thấy Adam không lạnh lùng, cao sang, xa lạ như “người từ Phương Tây trở
về” mà trái lại rất dễ chịu, có hiểu biết rộng. Từ ngày sang
Canada anh đã ly hôn một lần, rồi lập gia đình với một phụ nữ vùng
Quebec, nói tiếng Pháp. Anh đã đi khắp thế giới và rất thành công
trong sự nghiệp. Anh nói cha anh không chỉ có cái nhìn rất hạn hẹp
về thế giới, mà còn hết sức khó tính với mẹ anh lúc bà còn sống.
Anh ẫn giận cha đã không cho mẹ sang thăm anh khi vợ chồng anh sinh con
đầu lòng. Tôi lắng nghe, không lên tiếng gì bênh bác Waclaw. Tôi hỏi anh
muốn đi đâu, anh nói cứ để anh xuống ở khu Thành Cổ, anh đi dạo rồi
sẽ tự về khách sạn.
Bắt tay anh một cái
tôi chỉ kịp nói: “Nếu anh không về thì đến hè cho thằng con về thăm
bác, bọn em sẽ đón và cho nó đi chơi.” Adam gật đầu rồi rảo bước đi.
Hè năm đó, bác Waclaw rất ngạc nhiên và vui là Stanley, cậu
con 11 tuổi của Adam về thăm. Chúng tôi đưa bác ra sân bay đón
nó, nhìn bác ôm hôn thằng cháu người nước ngoài, chỉ lí nhí được
mấy câu chào bằng tiếng Ba Lan mà thấy xúc động lây. Tôi cũng thầm
vui đã làm được một việc tốt. Vợ tôi nói được tiếng Pháp đã dọn
đến ở nhà bác cả tuần để làm phiên dịch cho hai ông cháu. Hóa ra
thằng bé cũng hiểu khá nhiều tiếng Ba Lan vì nghe bố, chỉ chưa bật
được ra như đa số bọn trẻ có cha mẹ nhập cư tới một nước khác ngôn
ngữ. Sau một tháng hè thì nó nói khá trôi chảy các câu đơn giản và
theo ông đi chơi khắp các nhà hàng xóm. Dạo đó tôi bận việc, ít qua
thăm bác nhưng vợ tôi kể là bác Waclaw như trẻ lại, suốt ngày bận
bịu, nào đưa Stanley đi tàu điện vào phố ăn kem, rồi đi chợ, đi bơi.
Bác khoe là Stanley rất thích vào bảo tàng quân sự để vẽ lại súng,
pháo, quân xa, những thứ bác rất quen.
* *
*
Một sáng mùa đông,
đang ngồi trên tàu đi vào London thì tôi nhận điện thoại từ bà mẹ vợ
nói bác Waclaw vừa mất. Bà nhờ tôi báo tin dữ cho Adam. Tôi lờ mờ
cảm thấy bà không muốn nói chuyện trực tiếp với người cháu vốn đã
rời khỏi quê hương từ lâu lắm rồi và sau khi định cư ở Canada chỉ về
Ba Lan có vài lần. Chuyện anh ấy ra đi hóa ra vẫn để lại nỗi đau cho
các cụ thế hệ đó. Tôi nhẩm ra là giờ Canada còn sớm lắm nên nói
với bà là sẽ báo ngay trong ngày.
Đến buổi trưa giờ
Anh, tôi bấm máy cho Adam và chỉ nói ngắn gọn là: “Bác vừa mất, anh về đi và cần hỏi chi
tiết thì gọi cho bà Alina hàng xóm, bọn em sẽ không về nhưng bố mẹ
sẽ tới dự đám tang ở Warszawa.” Anh lặng đi, không nói gì thêm,
chỉ cảm ơn tôi và tắt máy.
Bác Waclaw mất được
hai năm tôi mới có dịp về thăm lại Ba Lan và vợ dặn là nhớ hỏi thăm
bà Alina. Một ngày trước khi trở lại Anh, tôi gọi điện, chỉ định nói
chuyện mấy câu thôi thì lại được bà bảo rằng trước khi bán nhà anh
Adam có gửi lại bà một số sách vở chắc là của tôi vì toàn chữ
Việt Nam, nếu tôi muốn lấy thì tới. Trước giờ ra sân bay, tôi lấy taxi
lại thăm con phố cũ. Nhà bác Waclaw đã có người khác dọn vào, ngoài
bờ tường đang đầy giàn giáo. Chủ mới hẳn muốn xây lại hoặc nâng thêm
tầng cho ngôi biệt thự mà sửa sang lại sẽ có giá ít nhất một triệu
đô la. Tôi nhận mấy cuốn sách, chia tay bà Alina rồi ra phi trường. Máy
bay lên cao rồi tôi mới mở cuốn Người gác đèn biển của Henryk
Sienkiewicz đã sờn gáy ra xem lại. Một tấm ảnh rơi ra. Bác Waclaw ngồi
bên bàn, một bên là tôi, một bên là bà Alina. Tôi nhớ hôm ấy sau một
buổi tụ họp Hưng chụp tấm hình đó và khen “Gia đình đẹp lắm”. Máy
bay tiếp tục lấy độ cao, trườn vào các tầng mây, ra khỏi không phận
Ba Lan. Ở trên cao kia, hẳn bác Waclaw gật đầu đồng ý: “Tak, bardzo ladna rodzina”.
*.
Tháng 9 năm 2020
LÝ THANH (tên thật: Nguyễn Giang)
Quê gốc: phường Đình Bảng, thị
xã Từ Sơn, Bắc ninh.
Cư trú: thị trấn Gravesend, Hạt
Kent, Anh Quốc.
Email: giangdart@gmail.com
.
............................................................................................................
- Cập nhật từ email: khoidinhbang@gmail.com
ngày 07.09.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm
của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét