TÁC
PHONG HỒ CHÍ MINH
*
Với Ông Hồ Chí Minh, cho tới nay, tôi vẫn giữ lòng kính trọng.
Tình cảm này được nảy sinh từ khi còn ở tuổi niên thiếu, dần được phát triển
tới lúc trưởng thành. Cho dù từ khoảng những năm 90 của thế kỷ trước, tôi đã
đọc không ít những tài liệu có tính chất “phản biện” như Hoa xuyên tuyết,
Mặt thật của Bùi Tín, Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên, Bên thắng cuộc
của Huy Đức hay gần đây là 2 tập Đèn cù của Trần Đĩnh, … cùng với vô vàn những
câu chuyện truyền miệng khác nhưng lòng kính trọng của tôi không có nhiều thay
đổi.
Tất nhiên, tôi không kính trọng theo kiểu coi
“Nguời là Cha già dân tộc” hay kiểu “Bác bảo đi là đi, Bác bảo thắng là thắng”.
Niềm kính trọng của tôi xuất phát từ những suy nghĩ của riêng mình. Trước hết,
với tôi, Hồ Chí Minh là một con người quả cảm. Chẳng phải dễ dàng khi một chàng
trai ở lứa tuổi đôi mươi, từ hơn một thế kỷ trước, khi những hiểu biết về
nước Pháp, nguời Pháp và thế giới phương Tây còn vô cùng hạn hẹp, với hai bàn
tay trắng dám bỏ nước ra đi để lập thân lập nghiệp (tôi khâm phục ông về việc
này mà không cần phải nói ông “ra đi tìm đường cứu nước”). Thêm nữa, ông là một
nguời yêu nước bền bỉ, đã trải qua bao gian khổ, bôn ba khắp năm châu để thực
hiện lý tưởng hoài bão của đời mình dù trong suốt cuộc đời, không tránh khỏi
những sai lầm. Về điều này, đã có quá nhiều nguời nói tới. Cuối cùng, tôi thêm
kính trọng Ông vì mặc dù trên đỉnh cao quyền lực suốt hơn hai mươi năm, Ông vẫn
giữ được nếp sống khiêm nhường, thanh đạm trong khi không ít những đồng chí
cùng thế hệ với Ông ở khắp nơi đã trở thành những bạo chúa.
Mặc dù đã biết nhiều chuyện “lề trái” về ông
nhưng tôi vẫn giữ niềm kính trọng không phải vì “mù quáng”, “ngộ nhận”, không
phải vì sợ “sụp đổ thần tượng”. Trước hết, tôi hiểu Ông dù sao cũng chỉ là một
con người với tất cả những tốt xấu, dở hay, … mà con nguời vốn có. Chính
vì luôn coi ông là bậc Thánh nên nhiều nguời mới bị thất vọng khi không ít
sự thật về cuộc đời ông được hé lộ, và trớ trêu thay, cũng chính vì họ
tôn ông là Thánh nhân nên ngày càng có thêm nhiều chuyện về ông theo chiều
ngược lại được đưa ra làm đối trọng. Không biết nguời xưa có phải đã bảo “Yêu
nhau như thế bằng mười phụ nhau”? Thứ hai, ông là một chính khách, một nguời
làm chính trị, mà theo tôi được biết, những nguời làm nghề khá đặc biệt này,
chẳng ai tránh được phải có những thủ đoạn, kể cả những nhà cầm quyền từ thời
cổ xưa như vua Nghiêu, vua Thuấn, … ở Tàu, Giu-li-ut Xê-da, Ô-guýt-xtuyt,
… bên Tây. Tôi nhớ đã đọc được ở đâu đó câu này “Chính trị xưa và nay đều được
tiến hành bằng sức mạnh và mưu mẹo”. Muốn sống chân thật như những con nguời từ
thuở nguyên sơ, hồn nhiên giữa trời mây, cây cỏ chẳng có cách nào khác, trước
hết phải xa lánh chính trị. Có lẽ chính vì thế, nhiều danh nhân xưa, sau một
thời gian tham chính để thỏa chí bình sinh, có chút ít đóng góp với đời, họ đều
lui về nơi thôn dã xa lánh chốn phồn hoa để sống cho riêng mình.
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Nguời khôn nguời đến chốn lao xao.”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Hơn nữa, rất nhiều việc làm xưa nay của Ông,
nhất là vào những năm cuối đời và sau khi Ông mất, thực ra đâu có phải do ý
muốn chủ quan. Có việc Ông buộc phải làm (một khi đã “cưỡi trên lưng hổ”), có
việc nguời khác làm nhưng lấy Ông làm bình phong. Ông trở thành cái vỏ bọc mà
giấu sau đó là những bộ mặt của nhóm lợi ích với mục đích không mấy trong sạch.
Rõ nhất là việc thực hiện những nguyện vọng về lễ tang sau khi Ông mất.
Cho nên, theo tôi, dù nhìn nhận, đánh giá Ông dưới góc độ nào cũng cần sự công
bằng.
Khi Ông mới qua đời, có một phong trào đã được
phát động rầm rộ trong cả nước: “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo
gương Bác Hồ vĩ đại”. Trong hoàn cảnh chiến tranh và những năm đất nước mới
thống nhất, khi nhiệt tình cách mạng của đông đảo quần chúng còn có độ nóng cần
thiết, phong trào đã có những thành công nhất định. Nhưng từ nhiều năm nay, từ
khi đạo đức bắt đầu có những biểu hiện “xuống cấp”, các cơ quan tuyên giáo
phát động và ra sức tuyên truyền cho phong trào “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” thì kết quả thực sự đáng buồn. Năm nào cũng có
hội nghị sơ kết, tổng kết, trao phần thưởng, …rồi không thiếu những cuộc thi
khá rình rang tốn kém, đáng tiếc phong trào có “phát” mà không “động”.
Những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa biến chất ban đầu chỉ ở “một bộ phận nhỏ”
đã chuyển thành “một bộ phận không nhỏ”. “Tình trạng suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã
hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,…”.
(Văn kiện Đại hội đảng lần thứ 11). Cần phải hiểu “diễn biến phức tạp” là
một mỹ từ để ngầm nói sự phát triển không thể kiểm soát nổi. Thậm chí, “thoái
hóa biến chất” không chỉ là chuyện của cấp thấp, nó đã biểu hiện ngay ở
những nguời thuộc tầng lớp trên. Thật là bi hài kịch khi một trong ba tấm gương
được khen thưởng trong phong trào này của năm 2010 chính là một “anh hùng nhất
khoảnh” có được danh hiệu Nhà nước phong tặng do man khai thành tích, còn dân
chúng thì tôn là “vua”. Mỗi lần “vua” đi săn, nguời dân phải lánh
xa vì đã có nguời bị trọng thương do đạn lạc; và “nhà vua” trong những cuộc ăn
nhậu cùng cận thần đã hành xử bất chấp đạo lý: “Đoạn cao trào,
“vua” ghì đầu cô gái (tiếp viên) hôn vào má trước mặt nhiều người. Cô gái vừa
chửi “đồ mất dạy” vừa tát vào mặt “vua”. “Vua” liền hô hào nói chủ nhà hàng
đuổi ngay cô tiếp viên.” Nguời được giải, được khen trong phong
trào, lại là “quan đầu tỉnh” mà như vậy thì cái phong trào ấy ra sao, chẳng cần
nói ai cũng biết.
Vì sao một phong trào được đầu tư nhiều tiền
bạc và công sức nhưng qua bao nhiêu năm vẫn chẳng mấy hiệu quả, chưa kể còn
mang nhiều tiếng cười chê? Với tầm nhìn không tránh khỏi hạn hẹp, theo tôi, có
thể kể ra ba nguyên nhân sau:
Nguyên nhân đầu tiên là, những nguời cần học tập trước hết là
những cán bộ đảng viên, nhất là những nguời có chức có quyền vì khi đạo đức
phẩm chất sa sút, họ chính là những nguời làm hại đất nước, làm hại nhân dân
nhiều nhất. Phong trào được phát động chính do trong hoàn cảnh hiện nay, không
ít nguời trong số họ đã tha hóa, mất chất, không còn xứng đáng là những nguời
“đầy tớ trung thành của nhân dân”, nhưng chính họ lại là những nguời thờ ơ
nhất. Coi đây chỉ là việc của đám quần chúng nhận thức hạn hẹp, họ tự cho mình
là những nguời có đặc quyền đặc lợi, thuộc đẳng cấp các “đỉnh cao trí
tuệ”, trách nhiệm của họ chỉ là rao giảng cho cái đám quần chúng kia biết
thế nào “là đạo đức, là văn minh”. Chưa kể, là “những nguời trong chăn”, họ đều
biết đây cũng là một việc “nói vậy mà không phải vậy” vốn đã là câu chuyện muôn
thuở trong công tác tuyên giáo.
Từ điển tiếng Việt giải thích đạo đức là “1. Những tiêu chuẩn,
nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con
người đối với nhau và đối với xã hội (nói tổng quát)…2. Phẩm chất tốt đẹp của
con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức của một giai cấp nhất định
mà có.” (Từ điển tiếng Việt. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội – 1988,
tr.311).
Còn theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Đạo
đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn
từ bản thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan
điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất
định về thế giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình
sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội.”
Cứ theo những cách hiểu ấy, “đạo đức” là một
khái niệm khá trừu tượng, nguời ta khó cảm nhận được bằng trực giác. Vì trừu
tượng nên có thể mỗi nguời hiểu một cách. Hãy thử đọc một đoạn trong Tài liệu
“Những phẩm chất đạo đức cơ bản theo tư tưởng Hồ Chí Minh”: “Nguời đã
từng nói: Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn,
cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Nguời cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì
muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người đã là một công việc to
tát, mà tự mình không có đạo đức thì còn làm nổi việc gì”.
Còn giải thích về “đạo đức Hồ Chí Minh”, Tài
liệu viết: “Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng về lý luận là đạo đức
mang bản chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động kết hợp nhuần nhuyễn
và sinh động với những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa
đạo đức của loài người. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của
dân tộc, của đảng, của loài nguời.”
Tất cả đều rất “trống chiêng rổn rảng”, toàn ở
tầm vĩ mô “dân tộc”, “loài người,” nhưng thiếu những biểu hiện cụ thể, để noi
theo, để nhắc nhở uốn nắn. Cho nên dù có kiểm điểm, phê và tự phê cũng không
tránh khỏi tình trạng “hòa cả làng”. Đó là nguyên nhân thứ hai.
Vả lại, cũng phải nói cho công bằng, vì nhiều lý do khác nhau, Hồ
Chí Minh trong cuộc đời mình đã có những biểu hiện đạo đức mà đông đảo mọi
người không thể và không nên học tập. Thông cảm, bao dung, độ lượng khi đánh
giá, nhìn nhận con người là một chuyện, còn lấy đó là tấm gương để noi theo lại
là việc khác hẳn. Cũng như đặt tượng Hồ Chí Minh ở một số nơi công cộng là việc
có thể nhưng đặt tượng khắp nơi, thậm chí đưa tượng Ông vào đền chùa chỉ tạo
những phản cảm cho nguời biết suy nghĩ.
Ở ta, không thiếu gì việc, nguời ta cứ đi quá
cái “ngưỡng” của nó. Nói nghề dạy học là nghề đáng quý là đủ, lại nói đó là
“nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý” thì lại thành ra trò lừa trẻ con;
nói cán bộ phải phụng sự dân là đủ, lại nói cán bộ là đầy tớ của dân thì là mị,
là xạo, … Trong trường hợp này cũng vậy, sao chúng ta không phát động phong
trào học tập và noi theo những tấm gương “tác phong” của Hồ Chí Minh vì theo
tôi, về tác phong, đúng là Hồ Chí Minh có rất nhiều điều để chúng ta học tập, nhất
là trong hoàn cảnh hiện nay.
Theo Từ điển tiếng Việt, tác phong là “lối làm
việc, sinh hoạt hằng ngày của mỗi nguời.” (Sđd. tr. 913). Nghe xem chừng
không “oai” bằng đạo đức nhưng nó là những biểu hiện hết sức cụ thể trong đời
sống. Nguời ít học cũng có thể noi theo, nguời không muốn học cũng không thể né
tránh vì tất cả những biểu hiện cụ thể ấy, ai cũng có thể nhận biết bằng những
giác quan thông thường. Tác phong của anh có giống tác phong của Hồ Chí Minh
hay không, đến một học sinh trung học cũng có thể nhận ra.
Học tập tác phong Hồ Chí Minh, theo tôi
trước hết nên học ba biểu hiện:
Điều đầu tiên cần học tập ở tác phong Hồ Chí Minh là thái độ gần
gũi với dân chúng vì “tác phong quần chúng là nội dung nổi bật nhất trong tác
phong của Hồ Chí Minh”. Ông là nguời có giáo dục, trong cuộc đời hoạt động đã
từng được nhân dân chở che, đùm bọc nên gần gũi với dân đã trở thành điều không
thể thiếu trong con người Ông. Từ khi làm Chủ tịch nước, Ông nhiều lần thăm
viếng mọi tầng lớp nhân dân ngay trong môi trường hoạt động của họ. Ông thăm
những gia đình nông dân trên cánh đồng khi họ đang gặt lúa, Ông vào xưởng máy
khi công nhân đang làm việc, Ông thăm bộ đội trên trận địa pháo cao xạ, thăm
học sinh khi các cháu đang học trên lớp, thăm một lớp bình dân học vụ khi bà
con dân nghèo đang học buổi tối trong các xóm lao động dưới ánh đèn dầu, …Cây
Ông trồng vào mùa xuân là những cây non, cao chưa quá đầu nguời. Tuổi đã cao,
sức lại yếu, thời gian hạn hẹp, cái hố đã được chuẩn bị trước, nhưng ông đã
trồng, đã tưới tắm cho cái cây thực sự… Chắc chắn những cuộc thăm viếng
này đều có sự chuẩn bị để đảm bảo an toàn, nhưng ngay nguời đứng đầu cấp Tỉnh
nhiều khi cũng chỉ được báo trước có “đồng chí Trung ương” về thăm. Cán bộ cấp
thấp và quần chúng nhân dân hoàn toàn không biết trước cho nên những cuộc tiếp
xúc diễn ra rất tự nhiên như cuộc sống vốn có, không ai có thời gian để
“bài binh bố trận”. Vị Chủ tịch nước “đột kích” kiểm tra nhà bếp, nhà vệ
sinh, … ngay từ khi mới xuống xe để biết được một phần thực trạng nơi mình tới.
Ông sẵn sàng xắn quần lội xuống ruộng lúa, cùng nông dân tát nước chống hạn.
Năm 1969, về trồng cây trên đồi thôn Yên Bồ ở xã Vật Lại, huyện Ba Vì (khi ấy
thuộc Hà Tây), cán bộ địa phương trải một tấm chiếu trên sườn đồi để Ông ngồi
nghỉ. Trước khi ngồi, Ông vén góc tấm chiếu, ngồi ngay trên bãi cỏ khiến những
cán bộ đi cùng cũng phải ngồi theo dù không ít nguời quần áo khá tề chỉnh.Thấy
lãnh đạo ngày nay “diễn” quá nhiều, đã không ít nguời trẻ tuổi nghi ngờ sự hòa
mình với quần chúng của Ông, thật oan uổng cho nguời có tấm lòng thành! (Hóa
ra, chính những nguời nhận là học trò, là nguời kế thừa, noi gương Ông
lại chính là những kẻ vô tình làm cho Ông phải “xấu mặt”). Tôi nghe nhà
thơ Thanh Tịnh nói, khoảng cuối những năm 50, Ông về thăm tỉnh Thanh Hóa. Sau
giờ làm việc Tỉnh mời ăn cơm trưa, Ông bảo cần vụ mang cơm nắm cùng
thức ăn đã chuẩn bị sẵn và giải thích làm như thế để khỏi làm phiền cho
“gia chủ” và cũng để tránh việc các chủ nhân “mượn gió bẻ măng”, lấy cớ tiếp
khách trung ương mà “quên tiết kiệm chỉ nhớ tiết canh”.
Học tập tác phong của Ông, chúng ta sẽ bớt đi
bao cuộc thăm viếng ồn ào và tốn kém: cả đoàn xe của bộ sậu hàng chục chiếc tới
tận ranh giới giữa tỉnh nhà với tỉnh bạn để đón cấp trên. Rồi sau đó là băng cờ
khẩu hiệu, là tiệc tùng chiêu đãi. Cấp trên tới đâu, cấp dưới đã chuẩn bị đón
rước thật nồng nhiệt, quần chúng nhân dân váy áo xúng xính, cờ hoa rực rỡ vẫy
chào. Mấy cháu bé bụ bẫm xinh xắn được chọn lựa do mẹ hay bà bế đứng hàng
trên với áo quần đẹp đẽ để cấp trên tỏ vẻ trìu mến cho cả trăm cái ống
kính đủ loại chụp ảnh, ghi hình chờ đến buổi tối quảng bá cho khắp bàn dân
thiên hạ. Những chuyến thăm viếng như thế, các cấp trên sẽ biết được
những gì về đời sống của nhân dân ngoài những màn trình diễn được xếp đặt công
phu? Cấp trên có hay chăng bao nguời dân, kể cả các Bà mẹ Việt Nam anh hùng vẫn
sống trong những túp lều tranh xơ xác, bao em thơ còn khát sữa, bao đứa trẻ
phải đu dây qua sông suối để tới trường?
Chúng ta sẽ bớt đi bao cuộc trình diễn “trồng
cây” hàng năm ở khắp nơi với những gốc cây cổ thụ được di chuyển từ chỗ này
sang chỗ khác, đến những cái xẻng cũng được trang sức cầu kỳ. Có lẽ điều
được nguời trồng cây quan tâm không phải là cái cây mà là tấm biển ghi
tên tuổi, chức vụ, học hàm học vị được gắn ngay tắp lự nơi gốc cây và bao ống
kính ghi lại chân thực những cái giả dối ấy.
Lối sống tiết kiệm, giản dị là điều cần học thứ hai khi đất nước
chúng ta dù đã qua bốn mươi năm thống nhất nhưng vẫn là một nước nghèo lại đang
là con nợ nần đầm đìa. Đó là cách sống của những nguời được thừa hưởng phẩm
chất tốt đẹp của gia đình có giáo dục trong truyền thống dân tộc. Đó là lối
sống của những nguời không quên những tháng năm vất vả để kiếm được đồng tiền
hạt gạo. Cho nên, ngay khi làm Chủ tịch nước, khi đã sống ở Hà Nội, mọi đòi hỏi
đều sẵn sàng được đáp ứng, Ông vẫn sống trong một ngôi nhà cũ kỹ, ngủ trên
chiếc giường gỗ quen thuộc. Cái bàn làm việc, bộ ghế bằng song mây ngồi đọc
báo, tiếp khách ngoài vườn đều không có gì xa lạ với mỗi nguời dân Việt Nam.
Cái cốc cắm vài ba bông hồng hái trong vườn vẫn không kém vẻ lãng mạn, thư thái
mà gần như chẳng tốn kém. Ngay cái nhà sàn, một thú chơi tao nhã của ông cũng
thân thuộc ẩn mình trong cỏ cây, hồ nước. Cách mặc của Ông cũng rất quen thuộc
với mỗi nguời bình thường không cần chăm chút đặc biệt, đôi dép cao su chẳng xa
lạ với mỗi nguời dân Việt Nam thời ấy (cũng xin nói thêm: tôi không tin đôi dép
bày trong hộp kính ở các bảo tàng là đôi dép của Ông. Một người tầm thước, lại
có những thú vui rất tao nhã không thể dùng một đôi dép vừa thô kệch vừa nặng
nề xấu xí như vậy). Lối sống giản dị và tiết kiệm của Ông không phải vì
trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn trong kháng chiến, hay vì đất nước còn
nghèo. Như trên đã nói, đó là lối sống của nguời tử tế, mọi hành xử đều được đặt
trong mối tương quan với đồng bào, với đồng loại. Nhìn những cảnh Tổng thống
các nước giàu có, văn minh tiếp khách, trồng cây hay đánh “gôn”, … cảnh
các tỷ phú như Bill Gate loanh quanh đi tìm một chỗ đỗ xe nhằm tiết kiệm 10
đô-la dành tiền cho nguời nghèo ta có thể thấy rõ điều ấy.
Học tập lối sống giản dị tiết kiệm của Ông,
chúng ta sẽ không phải “choáng” khi thấy cảnh các vị đã từng là “nguyên thủ”
đang tìm cách khoe nhà cửa sang trọng chẳng khác gì những cung điện của vua
chúa thời Trung cổ; ngân sách quốc gia chắc sẽ đỡ đi rất nhiều nợ công vì ngay
những tỉnh nghèo cũng xây nhà khách mất nhiều trăm tỷ đồng, những cái ghế ngồi
ở khắp nơi từ trung ương tới cấp quận huyện, chiếc nào cũng sang trọng và tốn
kém hơn nhiều lần ngai vàng của nhà vua thời xưa; các cuộc đại hội, họp hành,
hội nghị, hội thảo khắp nơi tràn ngập những hoa hình như để thể hiện cái rực rỡ
của sự thành công từ khi sự kiện còn đang chuẩn bị.
Vào buổi tối, mỗi khi xem tivi, những tin tức đầu tiên đập vào mắt
mọi người là cảnh các vị lãnh đạo thăm viếng các nơi trong và ngoài nước, dự
các cuộc gặp mặt, phát biểu trước đông đảo quần chúng. Thật vô cùng thất vọng
khi nguời xem được chứng kiến các vị “phương diện quốc gia” “ề à” đọc bài viết
sẵn của thư ký chuẩn bị trước. Không chỉ thất vọng mà còn xấu hổ khi các vị
“diễn” trò ấy ngay khi gặp gỡ các chính khách nước ngoài. Đôi khi, các vị ứng
khẩu, thì lại được nghe những câu như của mấy bà nhà quê “ngồi lê đôi mách”
dưới lũy tre buổi trưa hè, hay lời tự nhận hợm hĩnh của nguời thiểu năng. Cái
gì đã khiến các “đỉnh cao trí tuệ” “ăn không nên đọi nói không nên lời như thế?
Nếu chú ý học tập cách nói năng diễn đạt của Hồ
Chí Minh, chắc chắn chương trình Thời sự của VTV1 hàng ngày sẽ có thể tăng gấp
đôi lượng nguời theo dõi. Đó là cách nói năng mạch lạc, khúc chiết thể hiện
những ý tứ sâu sắc trong lối diễn đạt giản dị giàu chất dân gian. Tôi không nói
tới Tuyên ngôn độc lập hay Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, những áng văn
kiệt xuất mà tới nay có lẽ bậc “quốc sư” cũng bó tay. Cứ xem những lần gặp gỡ
quần chúng, tùy nơi, tùy lúc, tùy đối tượng, Ông đều có những lời dặn dò, nhắc
nhở tâm huyết, dễ hiểu dễ nhớ. Những bức thư gửi cho thiếu niên nhi đồng, các
cháu học sinh, các chiến sĩ ngoài tiền tuyến, thanh niên phụ nữ khắp nơi,… đều
do Ông tự tay viết. Bức thư nào cũng ngắn gọn, thể hiện đầy đủ nhiệm vụ chính
trị nhưng đồng thời cũng bộc lộ tình cảm chân thành. Tất cả đều xuất phát từ
đáy lòng nên những lời của Ông giàu sức thuyết phục. Tôi không tin khi có nguời
“hót” rằng Ông biết tới 29 thứ tiếng nhưng rõ ràng, vốn học vấn vững vàng được
trau dồi qua nhiều năm tháng do tự học khiến mọi điều cần nói, Ông không cần
chuẩn bị ra giấy. Những lời nói “vo” không cần sửa chữa nhiều cũng có thể
trở thành những câu văn chuẩn mực.
Các vị có hay chăng, nói năng chính là một
trong những điều được quan tâm vào loại hàng đầu với các chính khách và chính
nhờ khả năng này họ có thể thuyết phục, giành được sự hâm mộ của công
chúng.
Học tập tác phong Hồ Chí Minh, chẳng cần nói “lấy dân làm gốc”, chúng ta vẫn sẽ có những cán bộ gần dân, am hiểu cuộc sống của nhân dân, được quần chúng nhân dân mến mộ. Nhìn những con người ấy, ai cũng cảm thấy họ xuất thân từ quần chúng và dù ở cương vị nào, họ cũng đang một lòng một dạ vì những con người từ nơi mình đã sinh ra.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Đọc lại bài thơ
“Cảnh Khuya” của Hồ Chí Minhl
- Đêm Nay Bác Không
Ngủ” và 10 bài cảm nhận mẫul
- Phân tích một số
bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minhl
- Về một quãng thời
gian trong tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minhl
- Bài thơ “Vấn
Thoại” của Hồ Chí Minh và quan hệ giữa tòa và bị canl
- Hồ Chí Minh và
người Mỹ trong cách mạng tháng 8l
- Hồ Chí Minh, Hồ
Tập Chương và còn gì nữa?l
- Lời Cụ Hồ ca ngợi
vua Gia Long bị cắt bỏl
Mời nghe Khề Khà
Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ
của Đặng Xuân Xuyến:
Trần Chí Cường giới thiệu - Nguồn: onggiaolang
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
bài viết rất hấp dẫn, xin cảm ơn
Trả lờiXóa