DÂN TỘC VIỆT KHÔNG PHẢI LÀ HẬU DUỆ CỦA PHƯƠNG BẮC - Tác giả: Chu Tất Tiến (Hoa Kỳ)

Leave a Comment

 


DÂN TỘC VIỆT

KHÔNG PHẢI LÀ HẬU DUỆ CỦA PHƯƠNG BẮC


(Tác giả Chu Tất Tiến)

Không rõ từ thời đại nào mà truyền thuyết Dân Tộc Việt là con cháu của Người Phương Bắc và Dân Việt nguyên thủy là một trong Bách Việt của Bắc Phương, đã di cư xuống phía Nam và thành lập nên nước Việt. Truyền thuyết này được phổ biến rộng rãi và lặp đi lặp lại nhiều đến nỗi một số Sử Gia danh tiếng đã ghi vào trong Lịch Sử Việt Nam như một sự kiện có thật. Vì bị ảnh hưởng bởi truyền thuyết này mạnh quá, nên những Sử Gia đó đã bỏ qua một sai lầm cố ý của người Phương Bắc khi sử dụng chữ “Bách Việt”, tức là 100 Tộc đều cùng có gốc “Việt”, trong khi thực tế chỉ có khoảng hơn 10 tộc mang chữ “Việt” mà thôi, như “Ư Việt, Điền Việt, Dương Việt, Cán Việt, Sơn Việt, Mân Việt, Âu Việt, Lạc Việt..” Kẻ chế tác ra chữ “Bách = Một trăm” này là một trong những kẻ có âm mưu bành trướng xuống phía Nam, nên gộp toàn bộ các dân tộc ở phía Nam vào đất đai của người Phương Bắc, bất chấp là các dân tộc ở phía Nam không có cùng ngôn ngữ với họ. Mà cho dù là gộp toàn bộ các dân tộc thiểu số sinh sống trong địa phận của Việt Nam rồi chạy xuống Thủy Chân Lạp, Lục Chân Lạp… cũng không đủ số 100 nhưng với bản tính thích cường điệu, phô trương, người phương Bắc, mà chúng ta gọi tắt là Người Hoa, hay người Tầu, họ đã dùng “tâm lý chiến” đánh mạnh vào tâm thức của một số người Việt hiền lương để mang đến kết quả là rất nhiều người Việt đã tin rằng “mình là con cháu của người Tầu!”, từ đó ngưỡng mộ Tầu, rồi chấp nhập văn hóa Tầu, dần dần, để mặc cho Tầu xâm nhập Việt Nam và thống trị đất nước này theo hình thức xâm lăng mới: “Neo-Colonialism” (Tân Thực Dân), nghĩa là Xâm Lược mà không cần quân sự, kẻ xâm lăng và kẻ bị xâm lăng vẫn ở nguyên vị nhưng kẻ xâm lăng chỉ đạo mọi sinh hoạt chính trị, xã hội, kinh tế của nước bị xâm lăng bằng điện thoại, điện thư, bằng thư từ qua lại mà thôi.

Gần đây, để che dấu âm mưu Tân Thực Dân này, bất ngờ nhiều nguồn tin rỉ tai lại được tung ra: “Dân Việt là con cháu của Bắc Phương”, “Trở về Nguồn! trở về với Cội”... Một cô đào diễu dở tên Hà Đỗ đại diện Việt Nam đi thi hoa hậu thế giới ở Mỹ đã mang đàn “Tr’ưng” đến, biểu diễn bài “Cô gái vót chông” với những câu nghe rợn người như sau:

Ai nhanh tay vót bằng tay em?

Chim hót không hay bằng tiếng hát em.

Mỗi mũi chông nhọn hoắc căm thù.

Xiên thây quân cướp nào vô đây.

Còn giặc Mỹ cọp beo, khi còn giặc Mỹ cọp beo.

Em chưa ngừng tay vót chông rào buông rẫy.

Nhưng mai đây giặc chạy rồi.

Tre rừng ta làm nhà làm chòi cao.

Ê chân ta đi chưa nghỉ, trời chưa xanh.

Em còn vót chông nhiều làm cạm bẫy.

Ê quân xâm lăng gian ác bay muốn vào mũi chông sẵn sàng đây

Chờ bọn bay diệt bọn bay!

Việc cô đào nhí này chửi Mỹ trong khi Việt Nam đã ký nhiều hiệp ước giao thương với Mỹ, vẫn nhận viện trợ Mỹ, và các lãnh đạo Việt Nam vẫn thường sang Washington D.C thăm viếng và bàn thảo về quan hệ Mỹ-Việt, và ngày 10-9-2023, hai nước chính thức nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, làm cho dư luận Mỹ-Việt lo ngại. Dư luận cho rằng có một chiến dịch đang được thực hiện để che giấu việc Tầu Cộng đã và đang xâm lược nước Việt. Tiếc thay, vì âm mưu này tinh vi quá, nên một số trí thức Việt Nam, với ý thức và tâm tưởng đơn giản đã nghiêng theo ý hướng này mà viết những bài cổ võ cho việc “Dân Việt là hậu duệ của Nhà Hán, là một trong Bách Việt của Bắc Phương, đã từ phía Nam sông Dương Tử của Tầu mà tiến về Nam…” Mạnh mẽ hơn và cương quyết hơn, có tác giả Bùi Quý Chiến đã khẳng định: “Dân tộc ta là hậu duệ của Việt Vương Câu Tiễn!”

Đọc qua bài viết của tác giả đang cố chứng minh luận điệu trên, người ta thấy quá nhiều sai sót tuy Tác giả đã dẫn chứng tài liệu Sử trích từ “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, Nguồn gốc dân tộc Việt Nam của Đào Duy Anh, Việt Nam thời khai sinh của Nguyễn Phương, và Tục Ngữ Phong Dao Việt Nam của Nguyễn Văn Ngọc. Bên cạnh đó, tác giả cũng dẫn chứng “Edouard Chavannes trong khi dịch bộ Sử ký của Tư Mã Thiên, đoạn viết về nước Việt của Câu Tiễn, suy diễn rằng dân Việt của Câu Tiễn là tổ tiên của người An Nam.” Và “Léonard Aurousseau viết bài "Lần đầu tiên Trung Quốc chinh phục các xứ An Nam" đăng trên kỷ yếu của Trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1923.”  (http://www.dslamvien.com/.../chung-ta-la-hau-due-cua-viet...)

Thực tế, nếu đọc kỹ các tài liệu trên, ngay cả của Trần Trọng Kim và Đào Duy Anh đều thấy rằng các vị học giả đó đều đã xác định là theo “Cổ Sử”, “Dã Sử”, hoặc theo “Sử Tầu của Tư Mã Thiên”. Chỉ cần đọc qua các danh tự này, người đọc sẽ biết ngay thâm ý của các vị Sử Gia đời trước là “tất cả chỉ là huyễn hoặc, hồ đồ” vì “Cổ Sử, Dã Sử” là “sử truyền miệng của nhân gian, không có giá trị gì”! Còn Sử Ký của Tư Mã Thiên? Một người Phương Bắc, không biết học hành ra sao, chỉ là người viết nốt Sử thi của thân phụ theo những lời góp nhặt khắp nơi. Cuốn Sử Ký Tư Mã Thiên, không viết theo thể tường thuật sự kiện, mà lại viết theo thể Kể Chuyện Dân Gian! Vì ông viết sai nên bị nhà Hán “thiến” mất ngọc hành. (theo Wikipedia về Tư Mã Thiên). Ngay chính Tác giả Bùi Quý Chiến cũng chỉ viết là: “Edouard Chavannes trong khi dịch bộ Sử ký của Tư Mã Thiên, đoạn viết về nước Việt của Câu Tiễn, suy diễn rằng dân Việt của Câu Tiễn là tổ tiên của người An Nam.” Về các câu chuyện để chứng minh người Việt có nguồn gốc Tẩu, tác giả lại dẫn chứng “huyền thoại” Âu Cơ và Lạc Long Quân, mặc dù biết đó là chuyện tưởng tượng, không ai có thể đẻ được 100 đứa con! Và thời buổi hồng hoang ấy, sử gia nào có mặt và biết viết “chữ” để ghi chép lại sự kiện này (Thời đó, người Việt chưa có “Chữ viết” như bây giờ).

Hầu như trong suốt bài viết của tác giả Bùi Quý Chiến, đều sử dụng động từ “suy diễn”, nghĩa là “tự lý luận”, không phải là “chứng minh sự kiện”. Ông đã trích dẫn “Bình Ngô đại Cáo” của Nguyễn Trãi và “suy diễn” rằng bài này viết để chống Ngô Phù Sai là kẻ đã làm nhục Câu Tiễn bắt phải nếm phân.

Tác giả Bùi Quý Chiến viết:

Việt nam từ điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ định nghĩa rõ hơn:

Ngô = người Tàu, tên gọi từ khi nước Nam bị nhà Đông Ngô đời Tam Quốc cai trị.

Như vậy vì bị trị nên người xưa thù ghét gọi Tàu là Ngô. Tuy nhiên theo chúng tôi, "Ngô" trong ngôn ngữ của người xưa không phải Đông Ngô đời Tam Quốc nhưng là nước Ngô đời Đông Chu, kẻ thù của nước Việt ở Chiết Giang. Chúng ta biết trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, Đông Ngô chỉ cai trị nước ta 45 năm (220-265). So với 331 năm cai trị của nhà Hán (111 TTL - 220) và 289 năm cai trị của nhà Đường (618 - 907), thời gian cai trị của Đông Ngô không đủ gây thù ghét cho dân ta. Nhất là, theo sử gia Trần Trọng Kim, nhà Đường cai trị nước ta ác nghiệt hơn cả. Vậy sự thù ghét của dân ta phải nhắm vào nhà Hán hoặc nhà Đường mới hợp lý. Theo ý chúng tôi, đối với người xưa, đế quốc Tàu bị coi là đồng nghĩa với nước Ngô: kẻ thù của nước Việt ở Cối Kê.

Thực tế, chỉ cần nhìn vào niên đại thì thấy lý luận của tác giả nói trên hoàn toàn không có cơ sở: Nguyễn Trãi soạn bài “Bình Ngô Đại Cáo” trong năm 1428 và những niên đại của thời Đông Ngô, thời Đông Chu như chính tác giả viết, thì có một khoảng cách xa đến nỗi mà khó tưởng tượng được tại sao tác giả, là một người sinh sau “Bình Ngô Đại Cáo” nhiều thế kỷ, lại có thể gán chữ “Ngô” này vào một thời đại này mà không phải thời đại kia!

Tóm lại, những lý luận của các tác giả cho rằng Người Việt Nam là con cháu của Việt Vương Câu Tiễn chỉ là sự “suy diễn” ngớ ngẩn, viết trong tâm thức phục Tầu. Trên phương diện thực tế, nếu so sánh về cấu trúc cơ thể, chúng ta, là những người có thể nhận định qua các nhận xét thông thường, các tài liệu, hình ảnh thế kỷ 19, thế kỷ 20, và thế kỷ 21 đều thấy rõ rằng Dân Việt hoàn toàn khác với Dân Tầu về nhiều phương diện:

1- Về cấu trúc cơ thể: Thiếu Nữ Tầu mắt xếch, và mắt một mí. Thiếu nữ Việt mắt ngang, và hai mí, dịu dàng và đẹp hơn thiếu nữ Tầu rất nhiều. Cách đi đứng của thiếu nữ Việt cũng nhẹ nhàng, thoải mái, còn các cô Tầu thì đi rầm rộ như đi diễn binh, trừ các cô người mẫu đã tập luyện.

2- Về cấu tạo của lưỡi: cho dùng hàng chục thế kỷ đã qua, lưỡi người Tầu vẫn cứng đơ, không thể phát âm được chữ “Đ”, chữ có hai âm kép như “thỉnh thoảng, ngoặc kép, nguệch ngoạc, huyễn hoặc, ngoằn ngoèo…” Chữ “c” ở cuối cũng không phát âm được, như chữ “chút” thì người Tầu nói là “chúc”. Những chữ có “g” thì hoàn toàn không phát âm được….Thực tế, những người Tầu có thể phát âm giống người Việt là những người phải tập luyện rất cực khổ mới phát âm được nhẹ nhàng như người Việt.

Trên đây, chỉ là vài nhận xét thô thiển của cá nhân tôi, một trong những người yêu nước Việt, kính trọng Tổ Tiên oai hùng của Dân Việt, và hãnh diện vì giống nòi của mình. Cá nhân tôi không muốn khích bác ai, nhưng “thấy người làm trái, mà không cản thì là làm trái” đó.

-----------------

Chuyện vui thứ nhất: Vì người Hoa Chợ Lớn không thể nói được chữ “đ” mà chỉ nói được chữ “l” nên mong quý vị độc giả thử đọc chuyện vui dưới này có thật:

Một ông Tầu già đi xe đò từ Saigon ra Phan Thiết. Đang đi qua đèo, bỗng dưng ông Tầu khập khễnh đi lên, đến cạnh tài xế, nói gằn giọng:

- Cho ngộ lái một chúc.

Anh Tài trợn mắt:

- Cái gì? Ông muốn lái hả? Khùng à?

Ông Tầu tỉnh bơ, nói:

- Ngộ cần lái một chúc.

Anh tài lắc đầu, nhìn về trước:

- Ông già khùng rồi! đi chỗ khác chơi!

Ông Tầu thấy nói hoài mà tài xế không nghe, ông bèn nổi nóng:

- Không cho ngộ lái, ngộ cứ lái!

Rồi ông tụt quần ra, “lái” ngay tại chỗ làm bà con tá hỏa tam tinh…

Chuyện vui thứ hai: (xin độc giả đọc chữ “đ” ra chữ “l”.)

Một ông Tầu già hổn hển kể chuyện:

- Chời đất ơi! Hổm rầy, ngộ đi xe đò, không giái tờ, bị cô công an bắt vào đồn. Ngộ xuống, thấy đông không hà! Mà cái đồn gì mà nhỏ xíu, không có điện, tối thui, nhìn dô thấy đen thùi lùi. Công an nhốt ngộ vô cái đồn này, hỏi giái mãi, ngộ móc mãi mới ra tờ giái chứn min nhâng dâng, công an mới cho ngộ đi. Ngộ lên xe dồi mà cứ sợ cái đồn của cô công an, hôi hôi hám hám mà đen thùi lùi.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Cuộc chiến tranh Biên giới 1979l

- Những bài thơ chống giặc Tàul

- Những tấm bản đồ do Trung Quốc và Nhật Bản phát hành không ăn cướp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Naml

- Không được quên tội ác của bá quyền Trung Quốcl

- Trận chiến cầu Khánh Khê và giờ học lịch sửl

- Vị Xuyên ơi! Nỗi đau không quên!l

- Bàn thêm về nước Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử nước Việt Naml

- Gạc Ma - Nỗi đau không được quênl

- Vai trò của Mao Trạch Đông trong chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa năm 1974l

- Cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược: Hoàng Sa năm 1974l

 

CHUYỆN THUẬT SỐ ỨNG NGHIỆM VỚI MAO TRẠCH ĐÔNG

Đọc lời luận: tác giả Đặng Xuân Xuyến, Kỹ thuật video: Đinh Hoàng Long:

 

CHU TẤT TIẾN (sinh năm 1945 tại Hà Nội)

Định cư tại: Quận Cam, California, Hoa Kỳ.

Email: vietnguyen2016@aol.com.

 

 

 


 

.............................................................................................................

- Cập nhật theo nguyên bản từ messenger tác giả gửi ngày 23.06.2025.

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét